Powered By Blogger

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2019

Hệ thống Xã hội của Talcott Parson (III)


Bryan S. Turner

Người dịch: Hà Hữu Nga


Parsons và Xã hội học Mỹ

Các nhà phê bình về ảnh hưởng của
xã hội học chức năng luận cấu trúc Parsons, thường bỏ qua thực tế ảnh hưởng cá nhân của ông trong xã hội học chuyên nghiệp Mỹ vừa hạn chế lại vừa ngắn hạn. Ví dụ, J.Goudsblom (1988) cho rằng bằng cách so sánh với việc thiếu sức mạnh thể chế từ phía Norbert Elias, sự thành công của xã hội học Parsonian một phần được giải thích bởi sự thống trị của xã hội học có tổ chức của Parsons ở Mỹ là không chính xác. Các công trình ban đầu của Parsons về lý thuyết châu Âu chậm được thừa nhận (Camic 1989). Nhìn lại, bây giờ chúng ta có thể thấy Parsons quan trọng đến mức nào trong việc giới thiệu xã hội học kinh điển châu Âu (đặc biệt là Weber và Durkheim) đối với đời sống học thuật Mỹ, nhưng vào thời điểm đó, Parsons hơi xa rời xã hội học chính thống của Mỹ, là lĩnh vực tiếp tục bị chi phối bởi các học giả Mỹ như Robert Park, Charles Cooley, Franklin Giddings, Albion Small, William Sumner, William Thomas và Lester Ward. Những mối quan tâm lý thuyết của Parsons xem ra là ngoại vi đối với định hướng địa phương, mang tính ứng dụng và theo kinh nghiệm của Trường phái Chicago.

Không phải cho đến những năm 1950, ảnh hưởng của Parsons mới bắt đầu có một số tác động chung, một phần thông qua các sinh viên sau đại học của ông, bao gồm Bernard Barber, Kingsley Davis, Robert Merton, Wilbert Moore và Robin Williams. Parsons đã được bầu làm chủ tịch Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ vào năm 1949, và cũng đã thực sự ồ ạt công bố một số lượng lớn các bài báo và các tập sách viết về nhiều chủ đề. Tuy nhiên, trong khi xã hội học Parsons đang trở nên có ảnh hưởng, thì cách tiếp cận xã hội học của ông cũng phải chịu chỉ trích kéo dài và thường trái ngược nhau.

Có thể nói, có ba làn sóng cực kỳ đối lập với xã hội học Parsonian, hay cụ thể hơn, với cái được gọi là chức năng luận - cấu trúc” (structural-functionalism) (Alexander 1987). Có bài phê bình về phương pháp luận tộc người của các môn đệ Harold Garfinkel, người cho rằng trật tự xã hội được đặt nền tảng trong các quy tắc thực tế hiển nhiên đối với cuộc sống hàng ngày được duy trì bởi các thực hành liên tục của những thành viên am hiểu. Thứ hai, những người tương tác luận tượng trưng, ​ủng hộ công trình của Erving Goffman, cũng tranh luận chống lại những gì họ coi là cách giải thích chức năng luận của Parsons về trật tự xã hội. Đối với những người tương tác tượng trưng, ​​trật tự là một thuộc tính nổi bật của tương tác xã hội vi mô, chỉ có thể được duy trì nhờ sự thương thảo hợp tác giữa các tác nhân xã hội. Vấn đề là tính ổn định xã hội vốn đã bấp bênh.

Tuy nhiên, đó là những lời chỉ trích về cái đại khái có thể được gọi là lý thuyết xung đột đã được chứng minh lâu dài là sự phê phán triệt để và rắc rối nhất đối với Parsons. Ông được coi là một nhà tư tưởng bảo thủ, mà lý thuyết xã hội không thể giải thích được các biến đổi xã hội hoặc xung đột xã hội, một phần vì ông phủ nhận hoặc bỏ các lợi ích vật chất, vốn liên quan đến những chia tách cơ bản trong cấu trúc xã hội (chẳng hạn như giai tầng xã hội). Những lời chỉ trích này đã được trình bày trong vô số các tuyển tập phê phán, đối lập trực tiếp với cách tiếp cận Parsons nhằm giải thích trật tự xã hội. Những công trình phê phán có ảnh hưởng này bao gồm: “Vượt ngoài Không tưởng” (“Out of Utopia” của R.Dahrendorf (1958); “‘Quyền lực’ trong các công trình của Talcott Parsons” (‘Power’ in the recent writings of Talcott Parsons) của A. Giddens (1968); Cuộc khủng hoảng đang tới của xã hội học phương Tây” (The Coming Crisis of Western Sociology) của Alvin Gouldner (1971); Một số nhận xét về hệ thống xã hội” (Some remarks on the social system) của D.Lockwood (1956); Trí tưởng tượng Xã hội học (The Sociological Imagination) của C.Wright Mills (1959); J.Rex Những vấn đề chủ chốt trong lý thuyết xã hội học (Key Problems in Sociological Theory) của  J.Rex (1961).

Hệ thống Xã hội đặc biệt bị tấn công mạnh mẽ. Sự nhấn mạnh vào các giá trị và chuẩn mực đã được tổ chức để ngăn chặn mọi hiểu biết đúng đắn về vai trò của các lực lượng vật chất, công nghệ và tầng lớp xã hội trong việc định hình cấu trúc xã hội. Do đó, Parsons gặp khó khăn trong việc giải thích biến đổi xã hội mang tính bạo lực (ví dụ như các cuộc cách mạng) và chỉ có thể khái niệm hóa sự biến đổi bằng khuôn khổ tiến hóa sự phân hóa nội tại của các hệ thống xã hội như là một sự điều chỉnh thích nghi với môi trường. Thêm nữa, vì khó khăn này, Parsons chỉ có thể giải thích tình trạng đối lập trong xã hội bằng khuôn khổ của sự sai lệch khỏi một tập hợp chuẩn mực trung tâm. Theo cách hiểu thông thường, xã hội học Parsons phụ thuộc vào một phiên bản của luận đ tư tưởng thống trị (Abercrombie, Hill và Turner 1980), vì nó không thể khái niệm hóa một tình huống trong đó một hệ thống xã hội có thể có một số hệ thống cạnh tranh về giá trị. Các nhà lý thuyết xung đột còn lập luận rằng cũng có một số vấn đề kỹ thuật trong sơ đồ phân tích của Parsons, điều đó làm cho những vấn đề này trở nên tồn tệ thêm. Chúng ta có thể đề cập đến ba trong số những vấn đề này. Đầu tiên, có một vấn đề mang tính thông lệ là Parsons cảm thấy khó khăn trong việc dung hòa một viễn cảnh hành động (như trong Cấu trúc Hành động Xã hội) và một viễn cảnh hệ thống (như trong Hệ thống xã hội) (Scott 1963). Thứ hai, trong thực tế, rất khó để xác định một hệ thống xã hội, và định nghĩa một hệ thống xã hộiliên quan đến một xã hội.

Parsons coi các mối quan hệ xã hội giữa hai tác nhân xã hội (bác sĩ và bệnh nhân) là một hệ thống xã hội, nhưng rõ ràng Vương quốc Anh cũng là một hệ thống xã hội, bao gồm một số xã hội (Anh, Scotland và xứ Wales). Vậy thì nhà nước – dân tộc (ví dụ Pháp) là một xã hội hay một số xã hội? Bởi vì sự tồn tại hợp pháp của nhà nước – dân tộc thường bị tranh cãi (ví dụ, tình trạng của Litva ở Liên Xô), không thể có thứ phương trình ngờ nghệch về nhà nước – dân tộc, xã hội hoặc hệ thống xã hội được. Thứ ba, lý thuyết hệ thống xã hội của Parsons (và nói chung là chức năng luận cấu trúc) gặp khó khăn trong việc xác định các nguồn lực biến đổi xã hội, và sự phản đối này thực sự đặt ra một vấn đề về mối quan hệ giữa các diễn giải xã hội học và lịch sử. Parsons thường quy các “khuynh hướng xã hội (1963b) là các diễn giải về biến đổi xã hội (như trong các bài viết nổi tiếng của ông về chủ trương chống cộng McCarthyism), hoặc trong các tiểu luận về Chủ nghĩa Phát xít, ông đã nhìn nhận di sản của hệ thống giai cấp Đức liên quan đến bộ máy quan liêu quân sự như cách diễn  giải cho sự nổi dậy của chủ nghĩa quốc (Parsons 1942e; 1942f). Tuy nhiên, không rõ bằng cách nào những sự kiện và hoàn cảnh này có thể được hòa giải với chính bản chất chung của xã hội học của ông về hệ thống xã hội. Một phần, vấn đề này là một khía cạnh trong bài phê bình của Norbert Elias (1978) đối với tình trạng không hề có ý nghĩa của tính ngẫu nhiên lịch sử.

Những phản đối này rõ ràng đại diện cho một sự tiếp nhận phê phán dữ dội đối với xã hội học Parsons. Tôi sẽ sớm trở lại với việc bảo vệ khiêm tốn của Parsons. Tuy nhiên, tôi muốn nói rằng đằng sau những bình luận phê phán này, có hai cuộc tấn công cơ bản hơn, nhưng thường không được tuyên bố đối với Parsons. Đầu tiên là các công trình của ông gần như hoàn toàn bỏ qua những đóng góp của Karl Marx cho khoa học xã hội. Thứ hai là các công trình của ông, thường là công khai, tiêu biểu cho việc bảo vệ nền văn minh Mỹ với tư cách là mũi nhọn của tiến bộ hiện đại. Hai vấn đề này có liên quan rõ ràng với nhau.

Từ
vị trí lợi thế đã sống sót qua những cuộc cách mạng năm 1989, người ta ngày càng khó hiểu, hoặc đồng cảm với sự thống trị của chủ nghĩa Mác cấu trúc luận (structuralist Marxism) trong xã hội học vào những năm 1960 và đầu những năm 1970. Các sự kiện năm 1968 gắn liền với thời kỳ phát triển đáng kể về lý thuyết Marxist, đặc biệt là ở Đức xung quanh lý thuyết phê phán và ở Pháp xung quanh chủ nghĩa Mác cấu trúc luận. Mặc dù các trào lưu trí thức này ít có tác động đến lý thuyết xã hội Mỹ, nhưng có những phong trào sinh viên rất cực đoan ở Hoa Kỳ, ít nhất là trong một thời gian, đã bị ảnh hưởng bởi lý thuyết phê phán thông qua công trình của Herbert Marcuse. Parsons không mấy thiện cảm với các phong trào sinh viên như vậy trong khuôn viên đại học (Parsons và Platt, 1973b). Trong khi Marx đang tận hưởng một cuộc hồi sinh lớn trong các giảng đường đại học trên khắp thế giới, thì lý thuyết tổng quát của Parsons hầu như hoàn toàn đóng cửa với ảnh hưởng của lý thuyết Marxist. Marx chỉ được xem xét rất vắn tắt trong Cấu trúc Hành động Xã hội, trong công trình này ông bị gạt bỏ chỉ còn là một biến thể của lý thuyết kinh tế học vị lợi. Parsons duy trì quan điểm này về Marx như một người vị lợi trong suốt phần còn lại của sự nghiệp trí tuệ mình (Gould 1989). Parsons cũng đã viết gần như không có gì đặc biệt về Marx hoặc chủ nghĩa Marx. Sự lãng quên này đối với lý thuyết xã hội Marxist trong những thập kỷ quyết liệt của thời kỳ hậu chiến càng củng cố thêm quan điểm cho rằng xã hội học Parsons là bảo thủ về mặt tư tưởng.

Việc Parsons từ chối can dự vào lý thuyết Marxist đương đại có liên quan đến quan điểm của ông về vai trò của nước Mỹ trong công cuộc tái thiết sau chiến tranh. Parsons đưa ra quan điểm cho rằng sự thất bại của chủ nghĩa phát xít Đức và Ý là một cuộc khải hoàn của nền chính trị tự do, đa nguyên và chủ nghĩa tư bản là một hệ thống kinh tế. Nước Mỹ là minh họa cho sự tiến hóa xã hội thành công vàtiến bộ” - bất chấp các vấn đề về phân biệt chủng tộc, bạo lực đô thị, tội phạm có tổ chức và bất bình đẳng giai cấp - đã đưa ra được giải pháp thay thế hứa hẹn nhất cho chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Parsons thừa nhận nhiều thành tựu xã hội của xã hội Nga, nhưng vẫn hoài nghi về năng lực thích ứng của nó (Parsons 1965a). Do đó, Parsons không chấp nhận những lời chỉ trích triệt để về xã hội Mỹ, vốn phổ biến vào những năm 1960 (Lidz 1989).  Parsons cảm thấy rằng các lập trường phê phán được chấp nhận trong các công trình Đám đông đơn độc (The Lonely Crowd, Riesman 1950), Tinh hoa quyền lực (The Power Elite, Mills 1956), Hội Sane (The Sane Society, Fromm 1956), Nước Mỹ như một nền văn minh (America as a Civilization, Lerner 1957) và Tính cách độc đoán (The Authoritarian Personality, Adorno et al 1950) là rất hời hợt, đằng sau màn khói của tính trung lập học thuật, chỉ đơn thuần là những khẩu hiệu xì hơi mang tính hệ tư tưởng cũ rích. Ý định của Parsons là viết một nghiên cứu tổng quát về xã hội Mỹ như một lời đáp cho các nhà phê bình này, được gọi là Cộng đồng Hiệp hội Hoa Kỳ (The American Societal Community), nhưng rất ít nội dung của công trình này đã được hoàn thành một cách chính thức. Những gì còn lại là một bộ sưu tập các bản thảo (phần lớn chưa được công bố) (Parsons 1989). Do đó, sự phản đối gay gắt đối với Parsons không chỉ là xã hội học của ông bị khiếm khuyết bởi một loạt các vấn đề kỹ thuật, mà ngoài bài phê phán chủ nghĩa Marxism, thì việc phân tích các giá trị của ông là do ý định bảo vệ nền văn minh Mỹ chống lại các trào lưu xã hội cánh hữu (như McCarthyism) và chống lại các khối quyền lực trong hệ thống chính trị thế giới (như chủ nghĩa cộng sản Nga), đe dọa đến tương lai của chủ nghĩa đa nguyên văn hóa.

Biện hộ cho Parsons

Có một vấn đề với sự chỉ trích Parsons trong những năm 1960 là nó thường tập trung vào một phạm vi hẹp trong các công trình của ông, đặc biệt là Hệ thống Xã hội. Hiện tượng hồi sinh các mối quan tâm đến Parsons trong những năm 1980 đã được đặc trưng bởi việc tập trung vào toàn bộ các công trình của Parsons nói chung. Những điều nổi bật từ tổng quan đầy đủ hơn này chính việc đánh giá cao tính toàn diện về mặt lý thuyết của nó (Sciulli and Gerstein, 1985). Ngoài ra, ngày càng có sự đánh giá cao về các phẩm chất ứng dụng và thực nghiệm của khung Parsons, (Holton và Turner 1986). Do những đánh giá đương đại ấy về các đóng góp trọn vẹn cho xã hội học của Parsons, nhiều sự phản đối mang tính thông lệ đối với ông đã tỏ ra không còn quá hấp dẫn hay thuyết phục nữa. Cũng rất quan trọng để chỉ ra (với tư cách đánh giá đạo đức của Parsons như một con người) ông đã cố gắng trả lời một cách có hệ thống với những người phê phán mình. Chẳng hạn, Parsons đã trả lời nhiều phản đối cho rằng ông thao tác bằng một quan niệm xã hội hóa quá mức về con người (Parsons 1962c), rằng ông không có lý thuyết về quyền lực (Parsons 1963f), rằng công trình của ông là bảo thủ ( Parsons 1971f), và về quan niệm cho rằng ông đã hoàn toàn xuyên tạc xã hội học của Weber (Parsons 1975g).

Cách biện hộ khiêm tốn của Parsons có lẽ bao gồm các phương thức sau đây. Chống lại quan điểm thông thường coi Parsons là một người bảo thủ, giờ đây rõ ràng hơn bao giờ hết Parsons thực sự là một người theo Chính sách Tự do mới, đã cố gắng bảo vệ những biến đổi chính trị tiến bộ, như quyền công dân đầy đủ cho người Mỹ da đen (Parsons 1965b). Ngoài ra, sẽ là vô giá trị khi cho rằng xã hội học Parsons đã bỏ qua các vấn đề về những biến đổi lịch sử lớn; giống như Weber, Parsons đặc biệt quan tâm đếnthức tổng quát về sự phát triển của phương Tây từ các nền văn minh Hy - La và Thiên chúa giáo (Parsons 1971a; 1977a). Cũng có thể bảo vệ Parsons chống lại lối nghĩ cho rằng Lý thuyết Lớn của ông ít liên quan đến sự hiểu biết về các vấn đề thực nghiệm. Chẳng hạn, các tiểu luận của Parsons về cấu trúc xã hội Đức (Parsons 1942e), về trí thức (Parsons 1959d), hoặc nhiều bài viết của ông về các chuyên môn khác nhau là minh họa rõ ràng về khả năng viết về các vấn đề cụ thể và các vấn đề thực nghiệm của ông. Mặc dù Parsons đã mô tả chính xác bản thân mình trong lời bạt của Hệ thống Xã hội với tư cách là một nhà lý thuyết vô phương chạy chữa, nhưng ông cũng giữ được các mối bận tâm chính trị minh bạch và cụ thể trong các vấn đề đương đại chẳng hạn như phát triển các chương trình giảng dạy đại học, hoặc các vấn đề chính sách đối ngoại của Mỹ.

Mặc dù những nhận xét này là hợp lý và
thích đáng, nhưng chúng hầu như không độc đáo hoặc hấp dẫn. Quay trở lại những quan sát của tôi đầu tiểu luận này, có ba lĩnh vực biện hộ chính mà chúng ta nên giải quyết chi tiết hơn. Đầu tiên là xã hội học Parsons đã xác lập nhiều tham số chủ yếu của cuộc tranh luận đương đại trong xã hội học; các tham số này bao gồm (i) trật tự xã hội được giải thích như thế nào, và các giá trị được chia sẻ quan trọng đến mức nào trong cách giải thích như vậy? (ii) bản chất của hành động xã hội là gì, và làm thế nào chúng ta có thể bảo vệ tốt nhất ý tưởng về hành động tự nguyện chống lại các hình thức khác nhau của chủ nghĩa vị lợi? (iii) các đặc điểm thiết yếu của một xã hội hiện đại trong khuôn khổ các giá trị và cấu trúc xã hội của nó là gì, và bao nhiêu tính hiện đại ấy là sản phẩm của sự phát triển kinh tế tư bản? và, cuối cùng (iv) xã hội học có thể đóng góp như thế nào vào sự hiểu biết và thúc đẩy các mối quan hệ xã hội tiến bộ, có phải là các mối quan hệ tồn tại mà không đòi hỏi các hình thức cưỡng bức độc đoán? Những câu hỏi này, vốn là trung tâm của xã hội học Parsons, vẫn rất quan trọng đối với xã hội học chính thống và thậm chí còn là trung tâm của các lựa chọn xã hội học được các nhà phê bình Parsons xuất trình.

Mặc dù Parsons
không thấy được nhiều vấn đề hiện nay như: giới, lý thuyết nữ quyền, phân tích trao đổi biểu tượng ở cấp độ vi mô, các đặc điểm tiêu cực của chính sách đối ngoại của Mỹ, sự đàn áp do chủ nghĩa đế quốc phương Tây gây ra, nạn tàn phá các nền văn hóa thổ dân bởi quá trình Tây phương hóa, các khả năng của tình trạng “kém phát triển như là một hệ quả cần thiết của cái gọi là sự phát triển phương Tây, nhưng hai đặc điểm của xã hội học Parsonian vẫn tiếp tục thống trị xã hội học đương đại.

Đầu tiên là sự thừa nhận ngày càng tăng
quan điểm cho rằng xã hội học kinh điển đã thất bại trong việc phát triển một quan điểm đầy đủ về văn hóa, và các hình thức phát triển khác nhau của chủ nghĩa tư bản hiện đại đã làm cho các vấn đề văn hóa không những không giảm đi mà còn nổi bật hơn trong xã hội hậu công nghiệp. Với mối bận tâm của Parsons với nhân học văn hóa, mô hình lý thuyết ba bên về xã hội, văn hóa, tính cách, và việc ưa chuộng phân tích giá trị của ông, thì đóng góp của Parsons vào xã hội học văn hóa đã trở thành một đặc điểm quan trọng trong xã hội học tổng quát của ông. Khía cạnh ấy trong các công trình của ông vẫn chưa được quan tâm đúng mức (Robertson 1988).

Vấn đề chủ đề thứ hai trong xã hội học Parsons là lập trường phản hoài cổ đối với tính hiện đại (Holton và Turner 1986). Trong khi xã hội học chính thống, đi theo Marx và Weber, trên thực tế là một loại xã hội học của xã hội tư bản, thì Parsons rõ ràng là một lý thuyết giangười giữ vai trò chủ đạo của tính hiện đại. Xã hội học kinh điển vẫn lưu giữ một nỗi hoài cổ không nói ra đối với các giá trị bảo thủ của một cộng đồng nông thôn ổn định; các ý tưởng-đơn vị cơ bản của xã hội học (như cái thiêng, cộng đồng, quyền lực và vị thế) phản ánh sự cam kết ngầm này đối với cái thế giới được đại diện bởi các cộng đồng nông nghiệp tiền-công nghiệp (Nisbet 1967). Trong khi viết về Gesellschaft (tính xã hội) các nhà xã hội học thường chấp nhận một tập giá trị phù hợp hơn với Gemeinschaft (tính đồng nhất) (Holton và Turner 1989). Ngược lại, Parsons rõ ràng là người theo chủ nghĩa hiện đại trong việc chấp nhận thế tục hóa, phân hóa, chủ nghĩa đa nguyên giá trị, quan liêu hóa hành chính, văn hóa đô thị và các hình thức quyền công dân hiện đại. Không có gì trong xã hội học Parsons so sánh với nỗi xao xuyến thường trực mà Weber thể hiện theo tính hiện đại và hướng tới vấn đề khám phá một xu hướng khoa học hoặc chính trị trong xã hội hậu-tôn giáo (Lassman và Velody 1989). Với các cuộc tranh luận hiện tại về tính hiện đại và tính hậu hiện đại, không có gì là rủi ro khi dự đoán rằng Parsons có thể được hồi sinh với tư cách là người phát ngôn của tính hiện đại, và sự hồi sinh này có thể (với sự trớ trêu đáng kể) đặt Parsons vào cùng một phe với Habermas vì ước nguyện hoàn thành dự án về tính hiện đại duy lý.

Sự b
iện hộ chủ yếu thứ hai về Parsons là những nỗ lực lý thuyết của ông trong hơn nửa thế kỷ đã thể hiện một quá trình cố gắng bền vững và có hệ thống nhằm phát triển một cách tiếp cận mạch lạc duy nhất cho xã hội học, thay thế cho di sản của lý thuyết xã hội vị lợi bằng lý thuyết hành động tự nguyện. Các nhà phê bình Parsons gần đây đã tỏ ra tôn kính nhiệm vụ gắn kết phân tích nghiêm túc này. Do đó Habermas (1987: 199) cho rằng Parsons đã để lại một tập hợp lý thuyết “không ngang bằng về mức độ trừu tượng và phân hóa của nó, phạm vi lý thuyết-xã hội và chất lượng hệ thống của nó. Lý thuyết hành động này có lẽ đã: i) lường trước được tính trung tâm của các chuẩn mực và giá trị trong việc lựa chọn các mục đích hành động và quy định phương tiện cho các mục đích, và ii) duy trì quan điểm của tác nhân xã hội như một kẻ duy , cũng được thúc đẩy bởi các cảm xúc và đánh giá. Do đó, xã hội học của Parsons đã cố gắng cung cấp một cái nhìn tổng quan mạch lạc về lĩnh vực điều tra xã hội học tích hợp một cách hệ thống, theo cách giải thích về hành động, hành động xã hội và quan hệ xã hội của Weber, một lý thuyết hành động tự nguyện với cái mà chúng ta có thể gọi là lý thuyết văn hóa học về hệ thống xã hội.

Mặc dù nhiều nhà phê bình Parsons đã
cho rằng có sự gián đoạn giữa lý thuyết hành động và lý thuyết hệ thống xã hội của ông (do đó Parsons không cung cấp cho chúng ta một lý thuyết tổng quát hệ thống về xã hội học), bằng cách gọi lý thuyết hệ thống xã hội của Parsons là lý thuyết văn hóa học, chúng ta có thể nhận ra mối liên hệ mạnh mẽ giữa tầm quan trọng của các giá trị trong lý thuyết hành động và mô thức về các định hướng văn hóa trong lý thuyết hệ thống của ông. Một số khía cạnh của mối quan hệ này đã được phác thảo trong một nghiên cứu về lý thuyết Parsonian đã bị bỏ quên, Lý thuyết phân tích xã hội trong tác phẩm của Talcott Parsons (La theorie analytique de la societe dans loeuvre de Talcott Parsons,Chazel, 1974). Như Chazel chỉ ra, có một dòng phát triển lý thuyết trực tiếp từ ý tưởng định hướng hành động trong hành động đơn vị Cấu trúc Hành động Xã hội, sự xuất hiện của các biến mô thức trong Hệ thống Xã hội và sự phát triển cuối cùng của mô hình bốn phụ hệ thống (GAIL) của lý thuyết hệ thống sau này của ông. Trên thực tế, sự phát triển này là một nỗ lực nhằm giải thích rõ ràng những dính líu của xã hội học kinh điển, đặc biệt là sự phân biệt giữa GemeinschaftGesellschaft của Tönnies, để phân tích các xã hội hiện đại.

Các biến mô thức vẫn là một chủ đề bất biến trong xã hội học Parsons và do đó, ngược lại với các nhà phê bình ông, chúng chỉ ra một đặc điểm quan trọng của tính liên tục trong các công trình của ông. Mặc dù một số nhà bình luận cho rằng chúng đã bị từ bỏ trong các công trình sau này của Parsons, nhưng thực ra lại không phải như vậy. Các biến mô thức đại diện cho Parsons, không chỉ đơn giản là một khung lý thuyết, mà còn là một quy tắc đạo đức. Chúng ta đã thấy lý thuyết đạo đức ngầm này trong cách xử của ông đối với tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp trong việc hướng dẫn các mối quan hệ của bác sĩ với bệnh nhân (có địa vị phụ thuộccần được giúp đỡ). Trong một bức tranh rộng lớn hơn, nếu chúng ta coi các tác phẩm của Parsons, là một tổng thể có nghĩa vụ tìm kiếm một lời giải thích mang tính lịch sử và xã hội học về các cội nguồn của (những gì tôi sẽ gọi) “các hệ thống xã hội tiến bộ, thì tính liên tục của các biến mô thức trở nên rất rõ ràng. Các hệ thống xã hội tiến bộ được đặc trưng bởi tính đa nguyên của chúng, bởi dung sai đa dạng giá trị, sự khác biệt về cấu trúc, khả năng giải quyết các vấn đề hệ thống mà không viện đến bạo lực toàn trị, và do đó bởi cả quá trình thể chế hóa trạng thái phổ quát, định hướng-thành tựu và lòng vị tha. Trên cơ sở đó, sẽ có đất cho làm sóng chỉ trích sâu rộng về sự thất bại của nước Mỹ nhằm đạt được các chuẩn mực phổ quát này. Vấn đề quan hệ chủng tộc trong xã hội Mỹ sẽ là một minh họa nổi bật. Parsons nhận thức sâu sắc về những chỉ trích này, nhưng ông nghĩ rằng việc thể chế hóa các chuẩn mực công dân cuối cùng sẽ làm giảm đi các hình thức phân biệt đối xử như vậy, mà không nhất thiết phải xóa bỏ phân biệt chủng tộc (Parsons và Clark 1966c), và những thay đổi này sẽ cho phép sự đoàn kết xã hội đầy đủ cho cộng đồng Mỹ tránh được nội chiến.

Như tôi đã lưu ý, tầm nhìn này về xã hội hiện đại là bản dịch luận đề Đạo đức Tin lành của Weber thành lý thuyết xã hội học đương đại, mà sau đó Parsons đã kết hợp với ý tưởng cho rằng, tại thời điểm lịch sử đặc biệt này, xã hội Mỹ đã thể hiện thành công nhất đạo đức Tin lành Weberian (Robertson, 1982). Do đó, nước Mỹ đang ở đỉnh cao của quá trình hiện đại hóa. Luận đề này lần đầu tiên xuất hiện trong Hệ thống Xã hội và sau đó được phát triển đầy đủ trong tác phẩm Các xã hộiHệ thống Xã hội Hiện đại; nó cũng đã là cơ sở cho toàn bộ dự án Cộng đồng Hiệp hội Hoa Kỳ chưa hoàn thành. Các tuyển tập này cho rằng nguồn gốc lịch sử của chủ nghĩa tự do phương tây nằm trong việc thể chế hóa nền dân chủ trong các thành bang Hy Lạp và trong chủ nghĩa cá nhân, là một đặc điểm quan trọng của giáo điều Thiên chúa. Trong các nghiên cứu này, Parsons giữ cái nhìn lạc quan và hiện đại về biến đổi lịch sử, không phải là một sự phát triển mang tính tiến hóa hướng tới một thiên đường xã hội, mà là một quá trình cho phép con người có cơ sở để hy vọng rằng (sử dụng phép ẩn dụ bi quan của Weber) cái lồng sắt không phải là kết quả khả dĩ duy nhất của quá trình nỗ lực tập thể.

Việc biện hộ dứt khoát cho xã hội học Parsons sẽ tập trung vào tầm nhìn của chính ông về xã hội học. Trong suốt thời kỳ bùng nổ đại học sau chiến tranh, xã hội học thường xuyên là mục tiêu của sự chỉ trích công khai. Đối với cánh tả, nó được coi là một sự bảo vệ mang tính tư sản cho chủ nghĩa tư bản, giả mạo một khoa học khách quan. Đối với cánh hữu, nó được coi là một phiên bản học thuật của chủ nghĩa Marxism được che đậy hớ hênh bằng bộ cánh ngôn ngữ của một môn học hàn lâm khách quan. Cả hai đều đồng tình rằng xã hội học phải ra đi. Tất nhiên, tình huống này không phải là mới. Các bài giảng về xã hội học của Simmel tại Berlin được coi là mang tính lật đổ. Vào những thời điểm khác, xã hội học đã bị những kẻ bài Do Thái coi là một Khoa học Do Thái. Đối với các nhà xã hội học, những người theo ý tưởng về xu hướng khoa học của Weber, hết sức tận tụy với ngành học của họ, thì xã hội học Parsons đem đến một sự biện hộ xã hội học không bị hạn chế và không hối tiếc với tư cách là một khoa học sống còn về hành động xã hội, mà lĩnh vực đặc biệt tập trung là vai trò tích hợp của các giá trị chung, đặc biệt là việc duy trì các biến mô thức. Mặc dù nhân học và xã hội học đối với Parsons được kết nối chặt chẽ, nhưng nhân học đã nhanh chóng trở thành một lý thuyết về văn hóa. Xã hội học và nhân học rõ ràng được coi là một giải pháp thay thế cho loại lý thuyết vị lợi về hành động hợp lý, bởi vì phạm vi của các môn học này chủ yếu tập trung vào các hiện tượng phi . Có những cơ sở rất tốt để thấy nhiệm vụ của xã hội học trong một bối cảnh rộng lớn hơn.

Giải thích của Parsons về bản chất của xã hội học là mơ hồ. Trong khi phân bổ xã hội học để nghiên cứu phụ hệ thống tích hợp, Pasrons cũng có xu hướng xem xã hội học là một lý thuyết hành động tổng quát, trong đó các hiện tượng chính trị, kinh tế và tâm lý là quan trọng. Nói tóm lại, không rõ liệu xã hội học có phải là một ngành học đặc biệt liên quan đến việc thể chế hóa các mô thức giá trị hay nó là một khoa học tổng quát về cái xã hội. Trong cuộc thảo luận về xã hội học với tư cách là một khoa học này, điều quan trọng cần ghi nhớ là, ít nhất là trong bối cảnh của Đức, việc sử dụng từ khoa học (Wissenschaft) có một phạm vi rộng hơn nhiều so với bối cảnh Anglo-Saxon, mà ở đó khoa học được dành riêng cho các khoa học tự nhiên, thực nghiệm, thc chứng. Bởi vì Parsons chìm đắm trong văn hóa khoa học Đức, nên ông cảm thấy bớt xao xuyến hơn hầu hết vào việc sử dụng khoa học trong mô tả của mình về những ngành học nghiên cứu hành động.

Dù người ta có đồng ý với phiên bản xã hội học của Parsons hay không, tôi tin rằng chúng ta phải tôn trọng Parsons như một nhà khoa học dấn thân,
cuộc sống của ông cũng được định hình bởi các biến mô thức được ông mô tả trong Hệ thống Xã hội. Weber được cho là đã nói rằng, hầu hết những gì đang diễn ra dưới cái tên xã hội học đều là một trò lừa đảo (Mayer 1944: 87). Trong trường hợp của Parsons, hệt như với Durkheim, chúng ta phải đối mặt với một con người mà đối với ông, xã hội học là một lời kêu gọi. Với xã hội học Parsons, chúng ta được trao cho không phải là một trò lừa đảo, mà là loại sản phẩm trí tuệ chân chính.
________________________________

Nguồn: Preface to the New Edition, Talcott Parsons (1951 & 1991). The Social System, Routledge & Kegan Paul Ltd.

Tác giả: Bryan Stanley Turner (sinh năm 1945) là một nhà xã hội học người Anh và Úc, sinh tại Birmingham, Anh. Turner đã được bổ nhiệm giáo sư đại học ở Anh, Scotland, Úc, Đức, Hà Lan, Singapore và Hoa Kỳ. Ông từng là giáo sư xã hội học tại Đại học Cambridge (1998 - 2005) và Trưởng nhóm nghiên cứu Cụm tôn giáo tại Viện nghiên cứu châu Á, Đại học Quốc gia Singapore (2005 - 2008). Turner hiện là Giáo sư Xã hội học Tôn giáo tại Viện Tôn giáo, Chính trị học và Xã hội tại Đại học Công giáo Úc. Ông cũng là phó giáo sư của Trung tâm Xã hội học Văn hóa tại Đại học Yale, Thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Úc và Thành viên của Hiệp hội nghiên cứu xã hội học Mỹ. Ông nhận bằng Tiến sĩ tại Đại học Leeds vào năm 1970 với luận án có tựa đề Sự suy tàn của Hội Giám lý: phân tích về cam kết tôn giáo và tổ chức. Ông đã nhận được một số bằng danh dự công nhận những đóng góp của mình cho Xã hội học: Tiến sĩ Văn chương - Litterarum Doctor, Doctor Litterarum (ở Anh, Úc, Ấn Độ và Ireland học vị này cao hơn Tiến sỹ ) Đại học Flinder năm 1987, Thạc sĩ Đại học Cambridge năm 2002 và Tiến sĩ Văn chương Đại học Cambridge năm 2009.

Tài liệu tham khảo

Abercrombie, N., Hill, S. and Turner, B.S. (1980) The Dominant Ideology Thesis, London: Allen &
Unwin.
Adriaansens, H.P.M. (1989) “Talcott Parsons and Beyond: Recollections of an Outsider”, Theory,Culture & Society 6(4):613–21.
Adorno, T.W., Frenkel-Brunswik, E., Levinson, D.J. and Sanford, R.N. (1950) The Authoritarian
Personality, New York: Harper.
Alexander, J.C. (1984) Theoretical Logic in Sociology, Vol. 4: The Modern Reconstruction of
Classical Thought: Talcott Parsons, London: Routledge & Kegan Paul.
Alexander, J.C. (ed.) (1985) Neofunctionalism, Beverly Hills: Sage.
Alexander, J.C. (1987) Twenty Lectures: Sociological Theory Since World War II, New York: Columbia University Press.
Alexander, J.C. (1988) “The New Theoretical Movement”, in N.J.Smelser (ed.) Handbook of Sociology, Newbury Park: Sage, 77–101.
Bendix, R. (1969) Max Weber, an Intellectual Portrait, London: Methuen.
Buxton, W. (1985) Talcott Parsons and the Capitalist Nation-State, Toronto: University of Toronto Press.
Camic, C. (1989) “Structure after fifty years”, American Journal of Sociology 95:38–107.
Chazel, F. (1974) La theorie analytique de la societe dans l’oeuvre de Talcott Parsons, Paris: Mouton.
Dahrendorf, R. (1958) “Out of Utopia: towards a reorientation of sociological analysis”, AmericanSociological Review 64:115–27.
Dawe, A. (1970) “The two sociologies”, British Journal of Sociology 21:207–18.
Elias, N. (1978) The Civilizing Process, Vol 1 The History of Manners, Oxford: Basil Blackwell.
Fromm, E. (1956) The Sane Society, London: Routledge & Kegan Paul.
Ganssmann, H. (1988) “Money—a symbolically generalised means of communication? On the
concept of money in recent sociology”, Economy & Society 17(3):285–316.
Giddens, A. (1968) “‘Power’ in the recent writing of Talcott Parsons”, Sociology 2:257–72.
Giddens, A. (1976) New Rules of Sociological Method, a positive critique of interpretative sociologies, London: Hutchinson.
Giddens, A. (1984) The Constitution of Society, outline of the theory of structuration, Cambridge: Polity Press.
Goudsblom, J. (1988) “The Sociology of Nobert Elias: its resonance and significance”, Theory, Culture & Society 4(2–3):323–37.
Gould, M. (1989) “Voluntarism versus Utilitarianism: a critique of Camic’s history of ideas,” Theory, Culture & Society 6(4):637–54.
Gouldner, A.W. (1971) The Coming Crisis of Western Sociology, London: Heinemann.
Habermas, J. (1987) The Theory of Communicative Action, volume two, The Critiquc of Functionalist Reason, Cambridge: Polity Press.
Haines, V.A. (1987) “Biology and social theory: Parsons’s evolutionary theme”, Sociology 21(1):19–39.
Hamilton, P. (1983) Talcott Parsons, London and New York: Tavistock.
Holton, R.J. and Turner, B.S. (1986) Talcott Parsons on Economy and Society, London: Routledge & Kegan Paul.
Holton, R.J. and Turner, B.S. (1989) Max Weber on Economy and Society, London: Routledge.
Lassman, P. and Velody, I. (eds) (1989) Max Weber’s “Science as a Vocation”, London: Routledge.
Lerner, M. (1957) America as a Civilization, New York: Simon and Schuster, 2 vols.
Levine, D.N. (1980) Simmel and Parsons, two approaches to the study of society, New York: Arno Press.
Lidz, D. (1989) “The American value system: a commentary on Talcott Parsons’s perspective and understanding”, Theory, Culture & Society 6(4): 559–76.
Lockwood, D. (1956) “Some remarks on The Social System”, British Journal of Sociology 7:134–
45.
Luhmann, N. (1982) The Differentiation of Society, New York: Columbia University Press.
Macpherson, C.B. (1962) The Political Theory of Possessive Individualism, Oxford: Oxford University Press.
Mayer, J.P. (1944) Max Weber and German Politics, a study in political sociohgy, London: Faber.
Mills, C.Wright (1956) The Power Elite, New York: Oxford University Press.
Mills, C.Wright (1959) The Sociological Imagination, Harmondsworth: Penguin Books.
Munch, R. (1981) “Talcott Parsons and the theory of action 1: the structure of the Kantian core”, American Journal of Sociology 86:709–40.
Mills, C.Wright (1987) Theory of Action: towards a synthesis going beyond Parsons, London and New York: Routledge.
Nisbet, R. (1967) The Sociological Tradition, London: Faber.
Peel, J.D.Y. (1971) Herbert Spencer: the evolution of a sociologist, London: Heinemenn.
Rex, J. (1961) Key Problems in Sociological Theory, London: Routledge & Kegan Paul.
Riesman, D. (1950) The Lonely Crowd, New Haven, CT: Yale University Press.
Robertson, R. (1982a) “Parsons on the evolutionary significance of American religion”, Sociological Analysis 43:307–26.
Robertson, R. (1982b) “The sociological significance of culture: some general considerations”, Theory Culture & Society 5(1):3–24.
Robertson, R. and Turner, B.S. (1989) “Talcott Parsons and modern social theory: an appreciation”, Theory Culture & Society 6(4):539–58.
Savage, P. (1981) The Theories of Talcott Parsons: the social relations of action, London:
Macmillan.
Sciulli, D. and Gerstein, D. (1985) “Social Theory and Parsons in the 1980s”, Annual Review of Sociology 11:369–87.
Scott, J.F. (1963) “The changing foundations of the Parsonian action scheme”, American Sociological Review 29:716–35.
Simmel, G. (1978) The Philosophy of Money, London: Routledge & Kegan Paul.
Sorokin, P.A. (1966) Sociological Theories of Today, New York: Harper.
Tönnies, F. (1912) Gemeinschaft und Gesellschaft, Berlin: Karl Curtius.
Turner, B.S. (1981) For Weber, Essays in the Sociology of Fate, London: Routledge & Kegan Paul.
Turner, B.S. (1987) Medical Power and Social Knowledge, London: Sage.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét