Người dịch: Hà Hữu Nga
Những khó khăn trong diễn
giải
Vấn đề chung của công trình Hệ thống Xã hội (The Social System) là nó vừa là một trong những sách giáo khoa có ảnh hưởng và có hệ thống nhất của xã hội học hiện đại, vừa là một trong những cuốn sách bị chỉ trích dữ dội nhất. Đương nhiên tác giả của nó cũng có chung một sự nghiệp khá tương tự như vậy. Tác phẩm lớn đầu tiên của Parsons Cấu trúc Hành động Xã hội (The Structure of Social Action 1937a) đã được chứng minh về lâu dài là một trong những cuộc tấn công mạch lạc và sâu sắc nhất đối với các lý thuyết thực dụng về hành động xã hội trong khoa học xã hội, từ đó tạo ra Parsons, là một trong số những nhân vật có vai trò trí tuệ, một đóng góp hàng đầu cho các vấn đề phân tích lý thuyết kinh tế. Cuốn sách lớn tiếp theo của ông là Hệ thống Xã hội (1951a), cùng với Hướng đến Lý thuyết Hành động Tổng quát (Toward General Theory of Action, Parsons và Shils 1951b), đã tạo lập nên Parsons như một nhân vật trung tâm trong cái gọi là chức năng luận cấu trúc (structural functionalism), như một phong cách của công trình lý thuyết, thường bị lên án là siêu-trừu tượng, mắc lỗi logic, và bảo thủ. Do đó, một nghịch lý trong cuộc đời của Parsons là ở đây chúng ta thấy được một tác giả với hai đóng góp lớn cho xã hội học hiện đại, được coi là những lập trường loại trừ lẫn nhau. Mâu thuẫn này cũng giải thích một phần lý do, mặc dù Parsons có tầm vóc rất rõ ràng với tư cách là một nhà tư tưởng hiện đại, “nhưng thái độ thường thấy đối với lý thuyết của ông lại là sự phê phán xa lánh” (Munch 1981: 710).
Mục đích của bài
bình luận giới thiệu này về công
trình Hệ thống Xã hội
của Parsons
là để xem liệu mâu thuẫn hay căng thẳng này có thực sự tồn tại hay không và
liệu nó có thể được giải quyết theo một
cách nào đó không. Bởi vì văn cách của Parsons (đặc biệt
là trong các công
trình sau này) có tiếng là nặng nề, vướng víu, trong bài viết này, mục đích của tôi
chỉ là tạo điều kiện
cho người đọc tiếp
cận với văn bản
của ông. Một trong những nhà phê bình nghiêm khắc nhất với Parsons đã từng viết rằng các công trình của Parsons “đầy thứ tiếng lóng vờ vịt khoa học tính, hoàn toàn trống rỗng ý nghĩa, tính chính xác và sự tao
nhã sơ đẳng (Sorokin 1966:
56). Mặc dù tôi không chia sẻ quan điểm đó về các công trình của Parsons,
nhưng sẽ là sai lầm khi giả vờ coi
Hệ thống Xã hội là một tác phẩm có văn phong thú vị hoặc là công trình nhập môn cơ bản về xã hội
học. Do đó, một phần của nhiệm vụ của bài tiểu luận này là để trả lời câu hỏi:
tại sao lại đọc Parsons?
Những ai đã quen thuộc với các công trình của Parsons đều sẽ lưu tâm đến vẻ mỉa mai của câu hỏi này. Cấu trúc Hành động Xã hội của Parsons bắt đầu bằng câu hỏi khét tiếng, thâu nhận từ cuốn sách Tư tưởng Chính trị Anh thế kỷ XIX của Crane Brinton: “Ai giờ còn đọc Herbert Spencer?” Tất nhiên, câu trả lời là chẳng ai, nhưng vì công trình tiếp theo của Parsons ít nhất cũng có một số điểm tương đồng với chức năng luận của Spencer (Peel 1971), nên câu hỏi của riêng Parsons, trớ trêu thay, lại vận vào ông như một tiên tri. Thật hú vía, lời đáp cho câu hỏi, “Ai giờ còn đọc Parsons?”, chắc chắn không phải là chẳng ai. Như chúng ta sẽ thấy ngay sau đây, kể từ cái chết của Parsons ở Munich năm 1979, đã phục sinh mối quan tâm lớn đối với các công trình của Parsons, không chỉ trong nền văn hóa của riêng ông (Alexander 1984; 1987), mà còn ở Đức (Habermas 1987; Luhmann 1982; Munch 1987), ở Anh (Hamilton 1983; Savage 1981) và ở nhiều xã hội khác (Bourricaud 1981; Buxton 1985; Holton và Turner 1986; Robertson và Turner 1989). Thật vậy, đối với một số nhà bình luận về bối cảnh lý thuyết xã hội học hiện nay, việc tái định giá Parsons là một phần của sự hồi sinh lớn lao hơn của xã hội học, được mệnh danh là “Tân chức năng luận” (Alexander 1985) hoặc “Trào lưu Lý thuyết mới” (Alexander 1988).
Tuy nhiên, câu hỏi
của tôi không phải là liệu Parsons có còn là tâm điểm của sự chú ý hay không, mà là “Tại sao lại đọc Parsons?” Phần nào dự đoán một lời đáp đầy đủ hơn cho
câu hỏi ấy trong tiểu luận này, đại thể có ba cấu phần để bảo vệ các công trình của Parsons nói
chung và Hệ thống Xã hội nói riêng. Trước hết, theo nghĩa đen
là không thể hiểu được các cuộc tranh luận chính thống của xã hội học hiện đại nếu không hiểu gì về
xã hội học Parsonian, bởi vì cách xử lý của Parsons về các khái niệm hành động xã hội,
cấu trúc xã hội, chức năng, văn hóa và hệ thống xã hội, đã trực tiếp hoặc gián tiếp tạo hình nhiều bước phát triển tiếp theo trong xã hội học,
cả ở Mỹ và châu Âu. Tất nhiên, thường đối lập với Parsons ở chỗ những bước phát triển này đã
diễn ra. Ví dụ, “Lý thuyết cấu trúc” của Anthony Giddens (Giddens 1968; 1976) thường
được phát triển dựa trên các quan điểm về quyền lực, hệ thống và
hành động của Parsons.
Thứ hai, cách tiếp cận lý thuyết của Parsons cung cấp
cho chúng ta một mô hình mạnh mẽ về lý thuyết xã hội mang tính hệ thống, nhằm giải quyết các vấn
đề cơ bản của các
khoa học xã hội,
theo cách hiểu thông thường. Trong khi nhiều nhà xã hội học làm việc hoàn toàn biệt lập với các ngành
khoa học xã hội khác, thì
xã hội học của Parsons công khai nhằm mục đích dấn thân vào các vấn đề mang tính phân tích trong
khoa học xã hội “liền kề”, chẳng hạn như nhân học văn hóa của Clyde
Kluckhohn, “kinh tế học thể
chế” được phát triển đối lập
với hầu hết kinh tế học truyền thống và truyền thống
phân tâm học của Freud (Parsons 1953b; 1961d). Mặc dù Parsons rất đồng cảm với tính liên ngành (một
phần vì ông tham gia Khoa Quan hệ Xã hội của Đại học Harvard), nhưng Hệ thống Xã hội còn đem
đến một sự bảo vệ mạnh mẽ và thú vị của xã hội học với tư cách là một môn học tự lập. Thứ ba, xã hội
học, giống như các ngành khoa học xã hội khác, thường chiếm một vị trí không ổn
định và không chắc chắn trong nghiên cứu mô tả
và thực nghiệm quy mô nhỏ, ít có ý nghĩa khái quát và nghiên cứu lý
thuyết quy mô lớn, ít có ý nghĩa rõ ràng đối với các nghiên cứu ứng dụng, nhưng
lại có được mối liên quan chung. Xã hội học Parsons, tôi muốn
biện luận, đã tiến bước được một chặng dài để
thu hẹp khoảng cách này giữa xã hội học lý thuyết và xã hội học thực nghiệm.
Talcott Parsons: Cuộc đời và Thời đại
Cuộc đời của Parsons (1902 - 1979), thực sự không có biến cố lớn về mặt lịch sử, đã được phác họa khá thông thường (Parsons 1970g), mặc dù chúng ta chưa có một tiểu sử tri thức đầy đủ, ví dụ như so với tiểu sử tri thức mà Reinhard Bendix viết về Weber (1969). Tôi sẽ không cố trình bày tiểu sử của Parsons ở phạm vi này. Ở đây, ý định của tôi là bình luận về các khía cạnh của sự phát triển tri thức của Parsons để soi sáng các vấn đề liên quan đến Parsons khi viết Hệ thống Xã hội, chỉ có thể được nhận thức trong bối cảnh toàn bộ sự nghiệp của Parsons. Ba nguồn lực tri thức to lớn đã ảnh hưởng đến cách tiếp cận xã hội học của Parsons từ buổi đầu còn là sinh viên tại Amherst College cho đến khi ông qua đời ở Munich hơn nửa thế kỷ sau đó.
Trước hết là đạo Tin lành cải cách của gia đình Parsons, nơi chúng ta có thể theo dõi mối quan tâm vĩnh viễn của ông đối với vấn đề giá trị con người trong xã hội phương Tây. Mối quan tâm đến các giá trị này không chỉ đơn giản là mối quan tâm mang tính lịch sử, bởi vì Parsons muốn khẳng định rằng vấn đề định hướng giá trị thực sự là nền tảng cho chính cấu trúc của hành động xã hội (do đó, tiêu đề của kiệt tác của ông là về các vấn đề tư tưởng xã hội thực dụng). Parsons vẫn cam kết với tư tưởng cho rằng các giá trị của con người là thiết yếu cho phân tích xã hội học (Parsons 1935b). Từ đạo Tin lành, Parsons có được ý tưởng cơ bản cho rằng hành động của con người không thể được nhận thức một cách khoa học mà không cần đến việc phân tích giá trị. Về mặt này, thật thú vị khi so sánh Parsons và Weber, vì Weber cũng chịu ảnh hưởng cơ bản về thế giới quan của ông bởi đạo Tin lành, đặc biệt là triết học cải cách của W.E.Channing (Mayer 1944: 24ff). Tư tưởng về nhân cách như một kế hoạch chung cho cuộc sống của một con người được bắt nguồn trực tiếp từ nền tảng Tin Lành tự do của ông, và tiếp tục định hình thái độ của ông đối với hành động của con người theo hướng giá trị (Holton và Turner 1989).
Việc định vị Parsons
trong một truyền thống xã hội học kinh điển rộng lớn
hơn, chúng ta nên lưu ý rằng Parsons, giống như Marx,
Durkheim, và Weber, đặc biệt được thực hiện bởi hai câu hỏi. Đầu tiên là “Những đóng góp nào là của Kitô giáo, so
với Hy Lạp, La Mã và, ở một mức độ thấp hơn, là văn hóa Hồi giáo đối với sự tiến hóa của nền văn minh
châu Âu?” Câu hỏi thứ hai
là “Phạm vi ảnh hưởng
của các giá trị Kitô giáo đã giảm đến mức nào với sự thống trị ngày càng tăng của các thể chế
tư bản kể từ cuối thế kỷ XVI?” Đối với Parsons,
Kitô giáo đã định hình căn bản nền văn minh tư bản phương Tây thông qua việc nhấn
mạnh vào trách nhiệm cá nhân, chủ nghĩa khổ hạnh,
chủ nghĩa duy lý và sự tách biệt về chính trị và tâm linh. Về phương diện đó, Parsons chắc
chắn đã đi theo sự dẫn dắt bởi công
trình Đạo đức Tin lành và Tinh thần của Chủ nghĩa Tư bản của Weber mà ông đã dịch. Tuy nhiên, Parsons khác với Weber
khi cho rằng Cơ đốc giáo và chủ nghĩa tư bản không nhất thiết không tương
thích. Chẳng hạn, Parsons coi nhiều
khía cạnh của nước Mỹ thế tục (như đa nguyên luận văn hóa) là sự
hoàn thành các giá trị Kitô giáo (chẳng
hạn lòng khoan dung) (Robertson 1982). Xã hội học Weber bị chi phối
bởi các chủ đề của định
mệnh luận và bi quan luận
(Turner 1981); Xã hội học Parsons - và vì điều này mà ông đã bị chỉ trích nặng nề bởi các đối thủ
cánh tả - chứa đựng nhiều khía cạnh mang tính khải hoàn
luận (cảm giác tự hào từ ý thức về sự
vượt trội và kỳ vọng của họ vào chiến thắng cuối cùng dựa
trên ý thức thổi phồng về khả năng chiến thắng trong xung đột).
Thứ hai, tiểu sử
Parsons và quan điểm xã hội học của ông bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi sự ngưỡng mộ của
ông đối với y học chuyên nghiệp như một nghề nghiệp thế tục. Ý định
của Parsons vốn là nghiên cứu sinh
học cũng như triết học, và theo ngành y. Mặc dù
Parsons bắt đầu “trệch hướng” theo
xã hội học, thì mối bận tâm đến các vấn
đề y học vẫn là một khía
cạnh lâu dài trong các ý tưởng xã hội học của ông. Ví dụ, nghề y và cái gọi là “vai trò bệnh tật” (sick role) là những vấn đề chính
trong Hệ thống Xã hội nơi các giá trị y tế thể hiện một minh họa trung
tâm của hành động xã hội không bị chi phối bởi các giá trị tư lợi. Một người
chuyên nghiệp được kỳ vọng sẽ có lòng vị tha, hướng tới dịch vụ cộng đồng và được
điều chỉnh bởi đạo đức nghề nghiệp, chứ
không phải là những so
đo mang tính thị trường ngắn hạn.
Parsons cũng ngày càng bị ảnh hưởng bởi lý thuyết phân tâm học, đặc biệt là các
lý thuyết và kỹ thuật trị liệu của Freud. Parsons đã sử dụng các ý tưởng của
Freud về sự chuyển giao (transference) để giải thích các mối quan hệ xã hội giữa bác
sĩ và bệnh nhân; ông cũng sử dụng các ý tưởng của Freud về mặc cảm Oedipus để giải
thích các chức năng xã hội của những
cấm kỵ loạn luân trong việc
tổ chức gia đình hiện đại (Parsons 1954d).
Tuy nhiên, trong
khi quan niệm của Parsons
về hành động xã hội bị ảnh hưởng bởi khái niệm quy định bởi đạo đức nghề nghiệp,
thì ông cũng chấp nhận
các ý tưởng y học, và cụ thể hơn là sinh
học trong việc phát triển các
quan điểm của mình về hệ thống xã hội. Ở đây có một sự căng thẳng giữa mối
quan tâm của ông đối với
việc thực hành y học như là một mô
hình về cách thức mà các giá trị tạo hình hành động xã
hội, và mối quan tâm
của ông đối với các
hệ thống hữu cơ sinh học như là một mô hình về cách thức mà các bộ phận hệ thống
xã hội (các thể chế) hoạt động để cải thiện năng lực thích ứng của
hệ thống xã hội liên quan đến môi trường của nó.
Vậy thì, đây là một vấn đề quan trọng trong việc giải thích Talcott Parsons mà tôi đã ám chỉ bằng cách đặt đối trọng mối quan hệ giữa Cấu trúc Hành động Xã hội (1937a) và Hệ thống Xã hội (1951a). Chúng ta có nên coi xã hội học Parsons chủ yếu là một đóng góp cho việc phân tích (cái mà Parsons gọi là) một lý thuyết hành động tự nguyện, hay một đóng góp cho lý thuyết quyết định luận về cấu trúc của các hệ thống xã hội? Trong loại lý thuyết thứ nhất, yếu tố tác động (agency) của tác nhân xã hội dường như đảm nhận vị trí lý thuyết chính, trong khi đó trong trường hợp thứ hai, đó là cấu trúc của các quan hệ xã hội mới là cái có vị trí đầu bảng. Vấn đề nan giải này (cho đến giờ) là tập phân đôi kinh điển giữa duy tâm luận và quyết định luận, giữa duy tâm luận và duy vật luận, giữa yếu tố tác động (agency) và cấu trúc. Chúng ta có thể chấp nhận hai lập trường liên quan đến phiên bản Parsons của những mâu thuẫn này. Ở lập trường đầu tiên, chúng ta có thể lập luận rằng Parsons đã bị mắc kẹt một cách vô cớ bởi những vấn đề lý thuyết này và không đưa ra giải pháp cuối cùng cho những vấn đề này (Dawe 1970; Giddens 1984). Nếu chúng ta chấp nhận lập luận này, thì chúng ta đang khẳng định rằng cuối cùng toàn bộ lý thuyết tổng quát của Parsons (nhưng không nhất thiết là các bộ phận của nó) là không nhất quán và không mạc lạc về phương diện logic. Do đó, lý thuyết của Parsons cuối cùng phải bị từ chối. Chẳng hạn, Habermas cho rằng cuối cùng lý thuyết của Parsons không thể đương đầu được với bản chất giao tiếp của tương tác xã hội, và tiếp tục coi văn hóa là một phần hệ thống khách quan. Lý thuyết hành động ban đầu của Parsons đã bị áp đảo bởi lý thuyết các hệ thống tiếp theo của ông (Habermas 1987: 203).
Lập trường thứ hai sẽ
là phủ nhận quan
niệm cho rằng về mặt khái quát, xã hội học Parsons bị mắc kẹt bởi một nan đề giữa tác tố và cấu trúc, và lý thuyết của ông phải đi một chặng đường
dài để hòa giải những mâu thuẫn cổ xưa đó. Về mặt này, chúng ta sẽ phải tranh
luận rằng lý thuyết Parsons, nói một cách
nghiêm túc, không phải là một lý thuyết hành động
hay lý thuyết các hệ thống; thực tế
nó là một lý thuyết các
hệ thống-hành động. Lập trường thứ hai này sẽ
không tranh luận theo một nghĩa tuyệt đối nào đó cho rằng Parsons đã
vượt qua được những khó khăn
này, mà là (i) lý thuyết của
ông không bị hãm vào hoặc bị mắc kẹt
bởi những nan đề này, và (ii) do
đó có thể phát triển các
công trình của Parsons theo những cách thức vẫn rất hiệu quả cho sự
phát triển xã hội học trong tương lai. Lý thuyết Parsons hoàn toàn có khả năng sửa
chữa (Holton và Turner 1986).
Định hướng này đối với xã hội học của Parsons dường như là loại lập trường được thông qua bởi cái gọi là “Tân chức năng luận” (Alexander
1985), chấp nhận nhiều lời chỉ trích theo truyền thống chống lại Parsons, nhưng
lại muốn bảo vệ các mục đích chung của
xã hội học Parsonian thông qua việc chỉnh sửa di sản
Parsonian. Trong phần giới
thiệu cụ thể này về Hệ thống Xã hội
của Parsons, nói chung, tôi sẽ áp dụng tinh thần lý thuyết của Tân chức năng luận vì một lý
do đơn giản. Trong xã hội học, chúng ta đã tham gia quá nhiều vào việc tự phê
bình đến mức chúng ta có nguy cơ tự hủy hoại bản thân. Muốn biết liệu cái cây xã hội học này có còn phát triển
không, chúng tôi liên tục bứng
rễ lên để xem mọi thứ có ổn không. Để
tiếp tục ngoại suy, phần giới thiệu
này về Parsons áp dụng chiến lược cắt tỉa thay vì cắt cụt hết mọi cành nhánh lý thuyết. Trước
khi chuyển sang thực
thi công việc này, chúng ta cần xem xét mức độ cam kết của Parsons với
các ngành khoa học sinh học một
cách chặt chẽ hơn.
Trong lý thuyết
xã hội, việc sử dụng các phép ngoại suy và ẩn dụ từ các khoa học sinh học
đã trở thành một chiến lược
phổ biến trong việc phát triển các khung lý thuyết về các hệ thống xã hội. Đây là chiến lược cơ bản
cho sự “ngoại suy hữu cơ”, vốn phổ biến đối với chủ nghĩa Darwin xã hội
và xã hội học tiến hóa của
Spencer. Quan điểm của Parsons về các phẩm chất hệ thống của các mối quan hệ
xã hội đã bị ảnh hưởng bởi nhóm nghiên cứu của L.J.Henderson về V. Pareto, bởi công trình Trí khôn Cơ thể (The Wisdom of the Body) của Walter B.Cannon,
và bởi Claude Bernard
tại đại học Harvard. Chính từ
những ảnh hưởng này, Parsons đã thấy được sự biến đổi xã hội trong khuôn khổ thích ứng tiến
hóa của một hệ thống xã hội với môi trường của nó, đặc biệt là về sự khác biệt
cấu trúc của các bộ phận của một hệ thống. Ý tưởng nội cân bằng (homeostasis) cũng được coi là có tầm quan trọng trong các công trình của Parsons, cụ
thể là xu hướng “nhiễu loạn” của hệ thống dẫn đến một mức cân bằng mới. Do đó, các giả định chính của loại lý thuyết
này là (i) tất cả các hệ thống xã hội được xác định theo các mối quan hệ giữa các
bộ phận “nội tại” của chúng, và giữa hệ thống
và môi trường của nó; (ii) khái niệm đóng góp chức năng là thiết yếu trong việc nhận thức về tính liên tục của
các bộ phận khác nhau của một
hệ thống, và xã hội học chủ
yếu hướng đến việc phân tích ý nghĩa chức năng của các thể chế trong sự sống còn của các hệ thống
xã hội; và (iii) chính hệ thống xã hội
chứ không phải là
các bộ phận xã hội hay thể chế của nó mới là chỉ vật có ý nghĩa chức năng (Haines
1987). Nói một cách dễ hiểu, nhiệm vụ của xã hội học là khám phá ra cách thức vận hành của các thể chế khác nhau (như gia đình, nhà trường hay nhà
thờ), đó là cách thức
mà họ đóng góp cho tính
liên tục và sự sống
còn của xã hội
với tư cách một tổng thể. Trong các công trình sau này, mối quan
tâm về tính liên tục và biến đổi trong các hệ
thống xã hội này đã được mở rộng
và phát triển bằng mối quan tâm đến
loại khoa học mới là điều khiển học, đó là cách thức mà các hệ thống xã hội
được định hướng và
được điều chỉnh bởi việc lưu trữ và truyền tải thông tin.
Cho đến nay chúng ta đã thấy rằng xã hội học ban đầu của Parsons bị ảnh hưởng đáng kể bởi hai vấn đề chính: các giá trị tôn giáo và các khoa học sinh học. Chống lại chủ nghĩa Mác, Parsons lập luận rằng xã hội tư bản không thể được hiểu theo nghĩa độc quyền kinh tế (hay duy vật luận). Giống như Weber và Durkheim, Parsons quan tâm sâu sắc đến tác động của các giá trị tôn giáo đối với các vấn đề chính trị và kinh tế. Chúng ta có thể thấy ảnh hưởng này trong toàn bộ nội dung của Hệ thống Xã hội, nghiên cứu về các định hướng giá trị, mà các định hướng giá trị đó chính là nền tảng cho tương tác xã hội, và cung cấp cấu trúc định chuẩn cho của các mối quan hệ xã hội. Thứ hai, mối quan tâm của Parsons đến các khoa học sinh học đã khiến ông cam kết suốt đời với mối liên hệ khoa học giữa các khoa học tự nhiên và các khoa học xã hội. Ảnh hưởng lớn thứ ba đối với sự phát triển ban đầu của ông là bản chất của kinh tế học với tư cách là một khoa học.
Tầm quan trọng của
lý thuyết kinh tế đối với sự phát triển của xã hội học Parsons trong một thời
gian dài đã bị lãng quên nghiêm trọng (Holton và Turner 1986). Một phần do Parsons bị chỉ trích vì chủ nghĩa duy tâm của ông - cụ thể là mối quan tâm dai dẳng của ông đối với vai trò của các giá trị - mà
các nhà phê bình ông đã không xem phân tích
kinh tế là một chủ đề trung tâm của xã hội học Parsonian. Mối
quan tâm đến lý thuyết kinh tế ấy
xuất phát từ đâu? Trước
hết, Parsons đã chịu ảnh hưởng của Walter Hamilton, là người dạy kinh tế học thể chế tại đại học Amherst, nhưng mối
quan tâm trí tuệ này đã được củng cố rất nhiều sau một thời gian ngắn kể từ khi Parsons đến
Trường Kinh tế Luân Đôn, nhờ một học bổng của Đại học Heidelberg (1925 - 6). Ở Đức, Parsons đã viết một luận văn về khái
niệm chủ nghĩa tư bản trong văn liệu khoa học xã hội
Đức, từ luận văn đó Parsons công bố hai bài báo ngắn
(Parsons 1928; 1929), nhưng những nghiên cứu này lại đặt nền tảng cho
nhiều đóng góp tiếp theo của ông cho xã hội học kinh tế, chứ không phải chỉ
trong bài phê bình của ông về các ý tưởng kinh tế thực dụng trong Cấu trúc Hành động Xã hội, mà còn trong các bản dịch Weber của ông và trong
nhiều bài báo khác
về các tư tưởng và các lý thuyết gia kinh tế. Tuy
nhiên, cần phải lưu ý rằng sự
gắn kết của ông với lý thuyết
kinh tế và lịch sử kinh tế không chỉ đơn thuần là một giai đoạn đi qua trong sự
phát triển trí tuệ của Parsons. Parsons còn liên tục viết về xã hội
học kinh tế, chẳng hạn
với Neil Smelser (Parsons and Smelser 1956a), và ông cũng là một trợ giảng kinh tế học tại Harvard vào
năm 1931 và là giảng viên Marshall về kinh tế
tại Đại học Cambridge, Anh năm 1953.
Tuy nhiên, ngay cả những chi tiết này cũng đã làm khuất lấp tầm quan trọng thực sự của kinh tế học trong sự nghiệp trí tuệ của Parsons. Ảnh hưởng này có hai hình thức. Vấn đề đầu tiên là Parsons đã coi kinh tế là sự phát triển nhất của các lý thuyết hành động trong các khoa học xã hội và do đó, một mô hình về cách thức mà xã hội học có thể tiến hóa hướng đến một vị thế trưởng thành hơn với chương trình giảng dạy đại học. Parsons bắt tay vào phát triển một mô hình bốn hệ thống con của hệ thống xã hội xoay quanh bốn “nhiệm vụ”, đối mặt với một hệ thống xã hội liên quan đến môi trường của nó. Bốn hệ thống con này (hệ thống GAIL) là: i) đạt được mục tiêu (goal-attainment) (chính thể); ii) thích ứng (adaptation) (nền kinh tế); iii) hội nhập (integration) (hệ thống văn hóa của các giá trị chung liên quan đến pháp luật và kiểm soát xã hội), và iv) tính ẩn (latency) (vấn đề định chuẩn của động lực để thực hiện các vị trí trong hệ thống xã hội). Như chúng ta sẽ thấy, có những vấn đề nhất định với mô hình này, nhưng ở giai đoạn này, chúng ta có thể thấy Parsons nghĩ rằng kinh tế học là một khoa học về hành động kinh tế hóa với sự tham chiếu đặc biệt đến các vấn đề thích ứng giữa môi trường và hệ thống xã hội; kinh tế học đặc biệt liên quan đến việc phân bổ các nguồn lực khan hiếm. Do đó, ảnh hưởng liên tục đầu tiên của kinh tế học với tư cách một ngành học nằm trong khuôn khổ mối quan tâm chung của Parsons đối với xã hội học với tư cách một ngành học, mối quan hệ của nó với các ngành học khác và vấn đề cải cách chương trình giảng dạy trong trường đại học (Parsons và Platt 1973b).
Hình thức thứ hai trong đó kinh tế ảnh hưởng đến tư tưởng Parsons, là một mô hình trao đổi xã hội nói chung. Kinh tế học cung-và-cầu thông thường đã thu hút sự quan tâm nhằm hiểu được bản chất của việc tối đa hóa hành vi trong trao đổi hàng hóa giữa các cá nhân trong một thị trường. Các quan hệ trao đổi này thường được thực hiện, không phải là trong khuôn khổ trao đổi vật chất của hàng hóa, mà về phương diện biểu tượng thuộc khuôn khổ tiền tệ như một phương tiện trao đổi. Nhà tư bản mua sức lao động, không phải bằng cách cung cấp trực tiếp cho người lao động các phương tiện tồn tại (quần áo và thực phẩm), mà thuộc về khôn khổ lương lậu dưới dạng tiền tệ. Tuy nhiên, tiền tự thân chỉ là một biểu tượng của giá trị, vì về nguyên tắc, người lao động có thể được trả bằng các vỏ sò quý, tem bưu chính, séc hoặc các loại thẻ phiếu khác. Georg Simmel, là người có các công trình ảnh hưởng đáng kể đến Parsons, mặc dù thực tế không xuất hiện trong Cấu trúc Hành động Xã hội (Levine 1980), nhưng trong cuốn Triết lý về tiền (Simmel 1978: The Philosophy of Money) đã lập luận rằng tiền với tư cách là một biểu tượng của giá trị trao đổi trở thành một thước đo niềm tin, và do đó là thước đo mức độ tương tác xã hội đáng tin cậy. Parsons đã coi tiền là một phương tiện trao đổi tổng quát và bằng phép ngoại suy, đã lập luận rằng trong xã hội có thể có một số phương tiện như vậy. Cụ thể, ông xem quyền lực, ảnh hưởng và cam kết là các phương tiện trao đổi lưu thông, cho phép các tác nhân xã hội (social actors) đạt được các mục tiêu mong muốn. Các phương tiện trao đổi này liên quan đến mô hình bốn phụ hệ thống (GAIL) của Parsons. Tiền là phương tiện trao đổi giữa phụ hệ thống thích ứng và các ranh giới của nó; quyền lực là phương tiện tổng quát của chính thể; ảnh hưởng là phương tiện của phụ hệ thống hội nhập; và cam kết là phương tiện của phụ hệ thống tiềm tàng. Như chúng ta sẽ thấy, Parsons rất chuộng lối lập luận ngoại suy, cho nên quan điểm về quyền lực như một phương tiện trao đổi và cách tiếp cận cụ thể của ông đối với tiền tệ đều bị chỉ trích (Ganssman 1988). Ở giai đoạn này, tôi không trực tiếp quan tâm đến lời chỉ trích trên; mục đích của tôi chỉ đơn giản là xác lập ảnh hưởng của việc lý thuyết hóa mang tính kinh tế đối với sự phát triển trí tuệ của Parsons.
_______________________________________
Nguồn:
Preface to
the New Edition, Talcott Parsons (1991). In The Social System, Routledge & Kegan Paul Ltd.
Tác giả: Bryan Stanley Turner (sinh năm 1945) là một nhà xã hội học người Anh và Úc, sinh tại Birmingham, Anh. Turner đã được bổ nhiệm giáo sư đại học ở Anh, Scotland, Úc, Đức, Hà Lan, Singapore và Hoa Kỳ. Ông từng là giáo sư xã hội học tại Đại học Cambridge (1998 - 2005) và Trưởng nhóm nghiên cứu Cụm tôn giáo tại Viện nghiên cứu châu Á, Đại học Quốc gia Singapore (2005 - 2008). Turner hiện là Giáo sư Xã hội học Tôn giáo tại Viện Tôn giáo, Chính
trị học
và Xã hội tại Đại học Công giáo Úc. Ông cũng là phó giáo
sư của Trung tâm Xã hội học Văn hóa tại Đại học
Yale, Thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Úc và Thành viên của Hiệp hội
nghiên cứu xã hội học Mỹ. Ông nhận bằng Tiến sĩ tại Đại học Leeds vào năm 1970
với luận án có tựa đề “Sự suy tàn của Hội
Giám lý: phân tích về cam kết tôn giáo
và tổ chức”. Ông đã nhận được một số bằng
danh dự công nhận những đóng góp của mình cho Xã hội học: Tiến sĩ Văn chương - Litterarum Doctor, Doctor Litterarum (ở Anh, Úc, Ấn Độ và
Ireland học vị này cao hơn Tiến sỹ) Đại học Flinder năm
1987, Thạc sĩ Đại học Cambridge năm 2002 và Tiến sĩ Văn chương Đại học Cambridge năm 2009.
Tài liệu tham khảo
Abercrombie,
N., Hill, S. and Turner, B.S. (1980) The Dominant Ideology Thesis, London:
Allen &
Unwin.
Adriaansens,
H.P.M. (1989) “Talcott Parsons and Beyond: Recollections of an Outsider”, Theory,Culture
& Society 6(4):613–21.
Adorno,
T.W., Frenkel-Brunswik, E., Levinson, D.J. and Sanford, R.N. (1950) The
Authoritarian
Personality,
New York: Harper.
Alexander,
J.C. (1984) Theoretical Logic in Sociology, Vol. 4: The Modern
Reconstruction of
Classical
Thought: Talcott Parsons, London: Routledge & Kegan Paul.
Alexander,
J.C. (ed.) (1985) Neofunctionalism, Beverly Hills: Sage.
Alexander,
J.C. (1987) Twenty Lectures: Sociological Theory Since World War II, New
York: Columbia University Press.
Alexander,
J.C. (1988) “The New Theoretical Movement”, in N.J.Smelser (ed.) Handbook of
Sociology, Newbury Park: Sage, 77–101.
Bendix,
R. (1969) Max Weber, an Intellectual Portrait, London: Methuen.
Buxton,
W. (1985) Talcott Parsons and the Capitalist Nation-State, Toronto:
University of Toronto Press.
Camic,
C. (1989) “Structure after fifty years”, American Journal of
Sociology 95:38–107.
Chazel,
F. (1974) La theorie analytique de la societe dans l’oeuvre de Talcott
Parsons, Paris: Mouton.
Dahrendorf,
R. (1958) “Out of Utopia: towards a reorientation of sociological analysis”, AmericanSociological
Review 64:115–27.
Dawe,
A. (1970) “The two sociologies”, British Journal of Sociology 21:207–18.
Elias,
N. (1978) The Civilizing Process, Vol 1 The History of Manners, Oxford:
Basil Blackwell.
Fromm,
E. (1956) The Sane Society, London: Routledge & Kegan Paul.
Ganssmann,
H. (1988) “Money—a symbolically generalised means of communication? On the
concept
of money in recent sociology”, Economy & Society 17(3):285–316.
Giddens,
A. (1968) “‘Power’ in the recent writing of Talcott Parsons”, Sociology 2:257–72.
Giddens,
A. (1976) New Rules of Sociological Method, a positive critique of
interpretative sociologies, London: Hutchinson.
Giddens,
A. (1984) The Constitution of Society, outline of the theory of
structuration, Cambridge: Polity Press.
Goudsblom,
J. (1988) “The Sociology of Nobert Elias: its resonance and significance”, Theory,
Culture & Society 4(2–3):323–37.
Gould,
M. (1989) “Voluntarism versus Utilitarianism: a critique of Camic’s history of
ideas,” Theory, Culture & Society 6(4):637–54.
Gouldner,
A.W. (1971) The Coming Crisis of Western Sociology, London: Heinemann.
Habermas,
J. (1987) The Theory of Communicative Action, volume two, The Critiquc of
Functionalist Reason, Cambridge: Polity Press.
Haines,
V.A. (1987) “Biology and social theory: Parsons’s evolutionary theme”, Sociology
21(1):19–39.
Hamilton,
P. (1983) Talcott Parsons, London and New York: Tavistock.
Holton,
R.J. and Turner, B.S. (1986) Talcott Parsons on Economy and Society, London:
Routledge & Kegan Paul.
Holton,
R.J. and Turner, B.S. (1989) Max Weber on Economy and Society, London:
Routledge.
Lassman,
P. and Velody, I. (eds) (1989) Max Weber’s “Science as a Vocation”, London:
Routledge.
Lerner,
M. (1957) America as a Civilization, New York: Simon and Schuster, 2
vols.
Levine,
D.N. (1980) Simmel and Parsons, two approaches to the study of society, New
York: Arno Press.
Lidz,
D. (1989) “The American value system: a commentary on Talcott Parsons’s
perspective and understanding”, Theory, Culture & Society 6(4):
559–76.
Lockwood,
D. (1956) “Some remarks on The Social System”, British Journal of
Sociology 7:134–
45.
Luhmann,
N. (1982) The Differentiation of Society, New York: Columbia University
Press.
Macpherson,
C.B. (1962) The Political Theory of Possessive Individualism, Oxford:
Oxford University Press.
Mayer,
J.P. (1944) Max Weber and German Politics, a study in political sociohgy, London:
Faber.
Mills,
C.Wright (1956) The Power Elite, New York: Oxford University Press.
Mills,
C.Wright (1959) The Sociological Imagination, Harmondsworth: Penguin
Books.
Munch,
R. (1981) “Talcott Parsons and the theory of action 1: the structure of the
Kantian core”, American Journal of Sociology 86:709–40.
Mills,
C.Wright (1987) Theory of Action: towards a synthesis going beyond Parsons, London
and New York: Routledge.
Nisbet,
R. (1967) The Sociological Tradition, London: Faber.
Peel,
J.D.Y. (1971) Herbert Spencer: the evolution of a sociologist, London:
Heinemenn.
Rex,
J. (1961) Key Problems in Sociological Theory, London: Routledge &
Kegan Paul.
Riesman,
D. (1950) The Lonely Crowd, New Haven, CT: Yale University Press.
Robertson,
R. (1982a) “Parsons on the evolutionary significance of American religion”, Sociological
Analysis 43:307–26.
Robertson,
R. (1982b) “The sociological significance of culture: some general
considerations”, Theory Culture & Society 5(1):3–24.
Robertson,
R. and Turner, B.S. (1989) “Talcott Parsons and modern social theory: an
appreciation”, Theory Culture & Society 6(4):539–58.
Savage,
P. (1981) The Theories of Talcott Parsons: the social relations of action, London:
Macmillan.
Sciulli,
D. and Gerstein, D. (1985) “Social Theory and Parsons in the 1980s”, Annual
Review of Sociology 11:369–87.
Scott,
J.F. (1963) “The changing foundations of the Parsonian action scheme”, American
Sociological Review 29:716–35.
Simmel,
G. (1978) The Philosophy of Money, London: Routledge & Kegan Paul.
Sorokin,
P.A. (1966) Sociological Theories of Today, New York: Harper.
Tönnies,
F. (1912) Gemeinschaft und Gesellschaft, Berlin: Karl Curtius.
Turner,
B.S. (1981) For Weber, Essays in the Sociology of Fate, London:
Routledge & Kegan Paul.
Turner,
B.S. (1987) Medical Power and Social Knowledge, London: Sage.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét