Andrzej
Wiercinski
(Người dịch:
Hà Hữu Nga)
Tiền
nhận thức và sự phán đoán
trước của chúng ta, cái quy định nhận thức, luôn được kiểm nghiệm trong cuộc đối đầu này. Theo sau Heidegger,
Gadamer hiểu văn bản như là một cội nguồn của tồn tại. Do đó, hiểu biết về văn bản
phải bắt nguồn từ hiểu biết về tồn tại. Vì văn bản có gì đó để nói, nên
người
diễn giải, để hiểu những
gì cần hiểu, phải đưa vào sự kiện nhận thức cái tồn tại vô hình vốn
bị văn bản
làm khuất lấp. Nhận
thức tường giải diễn
ra như một sự hợp nhất của
các chân trời. Biết
rõ về sử tính
của riêng mình, chúng ta chạm trán một văn bản từ quá khứ và đối đầu với chính
chúng ta trong việc hiểu được ý nghĩa của nó. Ngôn ngữ và lịch sử quy
định nhận
thức. Có một kết nối không thể
tách rời giữa chủ thể nhận thức và điều cần được nhận thức. [22]
Nhận thức bị hạn chế bởi vì nó bị quy định bởi hoàn cảnh lịch sử của con người: đó là bởi bản chất của tính thời gian và tính hữu hạn. [23] Ý thức bị ảnh hưởng bởi lịch sử (wirkungsgeschichtliches Bewußtsein) chủ yếu là ý thức của trạng huống tường giải. Tuy nhiên, việc đạt tới nhận thức về một trạng huống, luôn luôn là một nhiệm vụ đặc biệt khó khăn. Bản thân ý tưởng về một trạng huống có nghĩa là chúng ta không đứng bên ngoài nó và do đó không thể có bất kỳ kiến thức khách quan nào về nó. Chúng ta luôn tìm thấy chính mình trong một trạng huống, và rọi sáng vào trạng huống là một nhiệm vụ không bao giờ có thể hoàn thành viên mãn được. Điều này cũng đúng với trạng huống tường giải - tức là, trạng huống chúng ta thấy mình liên quan đến chính cái truyền thống mà chúng ta đang cố gắng hiểu. Việc làm sáng tỏ trạng huống này - phản ánh về lịch sử một cách chân thực – là điều không bao giờ có thể hoàn toàn đạt tới được; nhưng thực tế là nó không thể được hoàn thành không phải do sự thiếu hụt trong phản ánh mà do thực chất của hiện hữu lịch sử vốn là bản thân chúng ta. Hiện hữu về phương diện lịch sử nghĩa là tri thức về bản thân ta không bao giờ có thể hoàn thành viên mãn. [24]
Với
tư cách là hiện hữu lịch sử, chúng
ta phải chịu tác động của lịch sử - Wirkungsgeschichte. Theo Gadamer, “chính xác thông
qua
tính hữu hạn của chúng ta,
tính đặc thù hiện hữu của chúng ta, hiển nhiên ngay cả trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, cuộc đối thoại vô tận được mở ra theo hướng của cái
chân lý là chính bản thân chúng ta.” [25] Ngôn ngữ là phương tiện của mọi kinh
nghiệm tường giải. Một trong khẳng định nổi tiếng nhất của Gadamer vẫn bị hiểu lầm là “Hữu thể có thể được hiểu là ngôn ngữ.”
(“Sein, das verstanden werden kann, ist Sprache.” Gadamer, Hans-Georg (1993). Wahrheit
und Methode. Grundzüge einer philosophischen Hermeneutik (Ges. Werke Bd. 1, S. 478). Zitiert nach Bd.
2 Ergänzungen, Register, 2. Aufl. 1993 – Chân lý và Phương pháp. Các
nguyên lý của Phép tường giải Triết học (Ges. Werke, Vol. 1, p. 478). Quoted
after Bd. 2 Supplements, Register, 2nd ed. 1993). [26] Đó không phải là một
tuyên bố siêu hình về khả tính nhận thức đầy đủ về phương diện
ngôn ngữ
của Hữu thể. Hiểu biết của con người là mang
tính ngôn ngữ; không có diễn
ngôn mà không có lời. Trong
cuộc trò chuyện, vô số nghĩa có thể có sẵn cho tình huống cụ thể. Trò
chuyện phản ánh cấu trúc của trải
nghiệm cuộc sống thực tế; nó là một sự kiện trong đó diễn ra việc thiết
định nghĩa. “Nguyên lý của phép tường giải đơn giản có nghĩa là chúng ta nên cố hiểu mọi
thứ có thể hiểu được.” [27] Quá trình khải lộ các lớp ý nghĩa mới thực sự là bất tận.
Tham gia vào các sự kiện của nhận thức, chúng ta chứng tỏ những chân trời luôn luôn mới cho sự hiểu biết khai mở và khải lộ những khả tính diễn giải mới. [28]
Chân
lý tường giải không biểu thị sự tương đương của các trạng thái tinh thần với thực
tại khách quan. Đó không phải là vấn đề về sự tương đương giữa chủ thể nhận thức
và bản thân đối tượng nhận thức, theo cái định nghĩa adaequatio intellectus et rei (Trí năng của người nhận thức phải
tương đương với điều được nhận thức). Đối với Gadamer, chân lý tường giải là vấn
đề thỏa thuận lẫn nhau giữa các đối tác tham gia đối thoại và tìm kiếm hiểu biết
chung. Nó mang tính tồn tại nhiều hơn, và về phương diện này, đó là một khía cạnh
đạo đức của hiện hữu tại thế.
Chân lý nghệ thuật
Chân lý và Phương pháp
bắt đầu với việc phân tích về kinh nghiệm của tác phẩm nghệ thuật với tư cách là
không gian đích thực cho việc trải nghiệm về chân lý diễn ra như thế nào. Toàn
bộ Phần Thứ nhất dành cho câu hỏi về chân
lý khi nó xuất hiện trong kinh nghiệm nghệ thuật. Gadamer quyết tâm đem lại
công bằng cho chân lý kinh nghiệm thẩm mỹ, vượt qua tính chất cực chủ quan hóa về
thẩm mỹ và tranh luận chống lại triết học quy giản, trong đó chân lý chỉ có thể
được tìm thấy trong khoa học. Chân lý nghệ thuật có trước việc trình hiện nó bằng
các phương pháp diễn giải. Các tác phẩm nghệ thuật thông qua tính vô định để mở
cho hòa giải và diễn giải bao gồm cả Wirkungsgeschichte
- tác động lịch sử của nó.
Gadamer
đọc chân lý nghệ thuật trong bối cảnh trò chơi, biểu tượng và trình diễn. Chân
lý tường giải là không thể tách rời khỏi trò chơi nhận thức như là một quá
trình giao tiếp. Theo nghĩa này, nó không phải là một cái gì đó phải được khám
phá (theo nghĩa re-presentatio tái hiện diện) mà là cái gì đó diễn ra
thông qua việc thực hiện lý tính giao tiếp. Gadamer không có ý định chứng minh
rằng tác phẩm nghệ thuật thể hiện chân lý của riêng nó, mà là để làm cho kinh
nghiệm nghệ thuật trở nên có nghĩa. Điều này đã đòi hỏi sự thừa nhận giá trị
chân lý của tác phẩm nghệ thuật bởi vì, bất chấp những nỗ lực hợp lý hoá nó theo
cách nào thì trong tác phẩm nghệ thuật, chân lí vẫn phải được trải nghiệm theo
cách thức không thể bị cấu thành bằng bất kì cách nào khác. Cái đẹp tạo ra
chính nó bằng cách nó thu hút chúng ta, cách nó thuyết phục chúng ta về chân lý
và tính công chính của nó. Nó nổi bật cả về bản chất và nghệ thuật, theo cách
mà nó thuyết phục tất cả chúng ta và làm cho chúng ta nhận ra rằng, thực tế,
đây chính là chân lý. [29]
Gadamer
cho rằng cái cộng đồng được tạo ra bởi tác phẩm nghệ thuật là một cộng đồng phổ
quát bao trùm toàn thế giới. Trên thực tế, mọi sáng tạo nghệ thuật đều thách thức
mỗi chúng ta để lắng nghe thứ ngôn ngữ mà tác phẩm nghệ thuật nói và biến nó
thành của riêng chúng ta. Nó vẫn đúng trong mọi trường hợp mà một thành tựu được
chia sẻ hoặc có khả năng được chia sẻ đang gặp vấn đề. Điều này vẫn đúng bất kể
việc hình thành một tác phẩm nghệ thuật có được hỗ trợ trước bởi một thế giới quan
chung có thể được thừa nhận là đương nhiên, hay trước hết chúng ta phải học cách
“đọc” ngôn ngữ của kẻ nói bằng sự sáng tạo trước chúng ta. [30]
Đối
với Heidegger, sự kiện khải lộ là sự kiện của chân lý. Chân lý được hiểu trong
khuôn khổ phép biện chứng của sự che giấu và không che giấu, không che giấu thì
che giấu bằng khải lộ. Đó là một sự tương tác bất tận giữa việc đóng vào và mở ra.
Điều quan trọng nhất ở đây là ở chỗ hai khía cạnh khải lộ đó thuộc về nhau. Sự
che giấu của thế giới có nền tảng trong sự che giấu của trái đất. [31] Trong tính
tương tác của chính sự che đậy và vén mở, chân lý nghệ thuật là sự xuất hiện
nghĩa được thực hiện trong sự tiếp nhận nó. [32] Nó quyến rũ một con người và
thể hiện chính nó như là một thách thức để bao hàm cả bản thân chân lý. Nó
không phải là một chân lý được khám phá mà phát sinh như một hệ quả của việc áp
dụng một cách thực hành.
Đối với Gadamer, ngôn ngữ thơ ca và
nghệ thuật thể hiện mối
quan hệ đặc biệt với chân lý như một sự kiện (Ereignis). Kinh
nghiệm đã được chứng minh cho
thấy rằng tác phẩm nghệ thuật
có một dấu ấn quan trọng đối với chúng ta, do đó tạo hình nhận thức mà ta có về bản thân mình. Bằng việc thể hiện chính mình, tác phẩm nghệ thuật quyến rũ chúng ta và
kêu gọi chúng ta thay đổi cuộc sống của mình. Một liên kết mạnh mẽ kết nối kinh
nghiệm chân lý và nhận thức của chúng ta trong chân trời của tính
không hoàn hảo và tính hữu hạn người. Nhận thức tường giải về con người không chỉ liên quan đến các khía cạnh đặc
biệt của cuộc sống cứ như thể con người chỉ là một hiện
hữu tư duy. Nó còn
là một nỗ lực để hiểu con
người trong tính phức tạp và tính tổng thể của nó mà không bao giờ mất đi cái
việc cảnh về tính phân mảnh vỡ thiết yếu
và tính không hoàn hảo của bất kỳ hiểu biết và nhận thức nào về con người.
Kết luận
Đối với Gadamer, nhận thức luôn là diễn giải. Phép tường giải định hướng ngôn ngữ của Gadamer đặt bản thân nó vào giữa triết học thực hành của Aristotle và phép tường giải của Heidegger về thực tính bằng cách tập trung vào khái niệm phronesis (φρόνησις) - trí tuệ thực hành). Đạo đức học của Gadamer dựa trên kinh nghiệm tường giải và chân lý tực hành tương ứng của nó. Chân lý tường giải không phải là một khái niệm tri thức luận mà là một phương thức hiện-hữu-tại-thế với những hệ quả cụ thể và những hàm nghĩa đạo đức học và tồn tại của nó. Một khái niệm chân lý đầy thông tin về phương diện tường giải, được giải thoát khỏi hệ mẫu tri thức luận truyền thống của nó, [33] giúp chúng ta hiểu rằng kinh nghiệm chân lý không thể được minh định bằng kinh nghiệm chủ nghĩa.
. Do bản chất quá trình của chân
lý tường giải và thời tính cũng như tính hữu hạn của hiện hữu người, có, và có thể không có chân lý tuyệt đối
hay cuối cùng; đó là vấn đề về tính mở đối với kinh nghiệm luôn luôn mới. Không có chân lý tuyệt đối có nghĩa là đối
với phép tường giải triết học không
có từ cuối cùng, bởi vì sẽ không có từ cuối cùng; nhận
thức là một quá trình không
bao giờ kết thúc. Chân lý tường giải là một kinh nghiệm sống của sự dung
hợp các chân trời, cho phép chúng ta gặp gỡ nhau và để đạt được
sự hiểu biết lẫn nhau, có thể sử dụng làm cơ sở cho việc cùng sáng tạo - Miteinander. Khái niệm đối
thoại nhận thức của Gadamer với tư cách một quá trình giao tiếp cung cấp mô hình
cho một trật tự xã hội không dựa vào sự thống trị (Herrschaft),
mà dựa vào thiện chí, tìm cách hiểu
được người khác. Chân lý tường
giải là chân trời mà chúng ta
sống bằng tồn tại lịch sử của chính
mình.
_________________________________
Nguồn: Wiercinski, Andrzej (2009). Hans-Georg Gadamer and the Truth of Hermeneutic Experience. In Analecta Hermeneutica. 1:3-14
(2009)
Tác
giả: Andrzej Wiercinski
sinh năm 1961 ở Białystok, Poland, là một nhà triết học, nhà thần học và một nhà thơ. Ông là Giáo sư chuyên
về Giáo dục Phổ
thông và Triết học Giáo dục,
Khoa Giáo dục, Đại học Warszawa, Giáo sư Triết học Tôn giáo tại
Albert-Ludwigs-Universität Freiburg im Breisgau, Đức và Chủ tịch
- Sáng lập (2001) Viện Tường
giải Quốc tế.
Ghi
chú:
22.
Gadamer, Chân lý và Phương pháp, 299. Gadamer làm rõ các điều kiện nhận thức luận về tri thức lịch
sử bằng cách nhấn mạnh một thực tế là rất khó “hài hoà kiến thức lịch sử giúp định hình ý thức lịch sử của
chúng ta với lý tưởng này và vì lý do đó, mà gặp biết bao khó khăn để nhận thức được bản chất thực sự của nó trên cơ sở quan niệm
hiện đại về phương pháp. Đây là nơi để biến những tuyên
bố tiêu cực thành những tuyên bố tích cực. Khái niệm “định kiến” chính là cái mà chúng ta có thể bắt đầu.” Ibid., 273.
“Việc vượt qua tất
cả mọi định kiến, cái
nhu cầu toàn cầu này
của Kỷ
nguyên Khai sáng, sẽ tự chứng tỏ
là một thành kiến, và việc loại bỏ nó mở đường cho một sự hiểu biết thích hợp về
tính hữu hạn không chỉ thống
trị nhân loại của chúng ta mà còn là ý thức lịch sử của chúng ta
nữa.”
Ibid., 277.
23.
“Cái đang bị đe dọa trong trường hợp đồng nhất tính cấu trúc của chức năng tự sự
cũng như trong trường hợp khẳng định chân lý về mọi hoạt động tự sự, là đặc
tính thời gian của kinh nghiệm về thời gian. Thế giới được mở ra bởi mọi hoạt động
tự sự luôn luôn là một thế giới thời gian...Thời gian trở thành thời gian người
ở mức độ nó được tổ chức theo cách thức của một tự sự; tự sự, đến lượt mình, lại
có ý nghĩa đến mức là nó mô tả các đặc điểm của kinh nghiệm thời gian.” Paul
Ricoeur, Thời gian và Tự sự, vol. 1,
trans. Kathleen Blamey và David Pellauer (Chicago: Nhà in Đại học Chicago,
1984), 3.
24.
Gadamer, Truth and Method, 301.
25.
Hans-Georg Gadamer, Philosophical Hermeneutics (Berkeley, CA: University
of California Press, 1976), 16.
26.
Gadamer, Chân lý và Phương pháp, 470. Trong “Lời
nói đầu của Ấn bản thứ
hai”, Gadamer giải thích: “Nhưng tôi tin là mình đã thể hiện chính xác cái được hiểu như vậy không phải là
cái Mày mà là chân
lý của cái mà cái
Mày nói với chúng ta. Tôi muốn
nói một
cách cụ thể về
chân lý là cái trở nên hữu hình đối với tôi qua cái Mày, và chỉ bởi vì tôi để cho bản thân mình được nói điều gì đó bằng
chính nó. Nó cũng giống như
truyền thống lịch sử. Sẽ không đáng để chúng ta quan tâm nếu không có thứ gì đó dạy
cho chúng ta biết
rằng chúng ta không thể tự
mình biết được. Chính theo nghĩa này, mà câu “Hữu thể có thể được hiểu là ngôn ngữ" phải
được hiểu
như vậy. Nó không có nghĩa là
người nhận thức tuyệt đối làm chủ, mà ngược lại, Hữu thể không được trải nghiệm, ở nơi mà một cái gì đó có thể được chúng
ta xây dựng nên và ở mức độ đó nó
được nhận
thức; nó được
trải nghiệm ở
nơi những gì đang diễn ra chỉ có thể được nhận
thức. ”Ibid., xxxii.
27.
Gadamer, Philosophical Hermeneutics, 31.
28.
Cf. Robert Bernasconi, “‘You Don’t Know What I’m Talking About:’ Alterity and
the Hermeneutic Ideal,” in Lawrence K. Schmidt, ed., The Specter of
Relativism: Truth, Dialogue, and Phronesis in Philosophical Hermeneutics (Evanston,
IL: Northwestern University Press, 1995) 178–194.
29.
Han-Georg Gadamer, Gesammelte Werke, Bd. 9 (Tübingen: Mohr, 1993), 19.
30.
Hans-Georg Gadamer, The Relevance of the Beautiful, ed. Robert
Bernasconi (New York:
Cambridge University Press, 1986), 39.
31. Gadamer mô tả [31] phép tường giải triết học của
mình như là một nỗ lực để tiếp nhận và xây dựng cách tư duy của Heidegger.
Hans-Georg Gadamer,
“Reflections on My Philosophical Journey,” in Lewis Hahn, ed., The
Philosophy of Hans-Georg Gadamer (Chicago: Open Court, 1997), 47.
32.
Mặc dù Gadamer tuân theo
sự nhấn mạnh hữu thể luận của Heidegger trong việc xác định chân lý là Unverborgenheit (Không che đậy) và Erschlossenheit
(Mở ra) nhưng
bản chất xác
thực của tính
tương đồng giữa chúng vẫn bị tranh cãi. Xem, ví dụ, Robert Dostal, “The Experience
of Truth for Gadamer and Heidegger: Taking Time and Sudden Lightening,”
Hans-Georg Gadamer, “What is Truth?” James Risser, “The Remembrance of Truth:
The Truth of Remembrance,” in Brice Wachterhauser, ed., Hermeneutics and
Truth (Evanston, IL: Northwestern University Press, 1994).
33.
See Calvin O. Schrag, Communicative Praxis and the Space of Subjectivity (Bloomington,
IN: Indiana University Press, 1986), 187.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét