Paul Pelliot
Người dịch: Hà Hữu
Nga
Lịch
sử Nam
Chiếu đã được các
ông E.H. Parker và E.
Rocher kể
lại [1], và nếu vẫn còn cần
phải được viết
chi tiết
hơn, thì
đó
không phải là công
việc của nghiên cứu này.
Tuy nhiên, vì Nam Chiếu đã đóng cửa tuyến đường đến Miến Điện, nên tôi nghĩ là việc gợi nhớ lại những giai đoạn lịch sử tồn tại lớn lao của nó là rất hữu ích. Từ một thời gian chưa
được xác định, ở phía tây và
tây bắc Vân Nam đã có đến sáu 詔 chiếu, chiếu, trong ngôn ngữ của quốc gia này có nghĩa là ông hoàng (tù trưởng). Trong thời 開元 Khai Nguyên (713-741), cực
nam của sáu bộ
tộc, hay các
chiếu, là chiếu của Bì
La Các (皮羅閣 P'i-lo-ko), nhờ
có tình trạng địa lý này mà
được biết đến với cái tên Nam Chiếu “Chiếu phương nam”, được sự che chở của Trung Quốc đã thôn tính năm chiếu còn lại, và cái tên Nam Chiếu này vẫn được sử dụng cho toàn bộ
vương quốc mới [2]. Trung Quốc cũng phong
cho ông danh hiệu 雲南王 Vân Nam vương, ông hoàng Vân Nam; trong khoảng thời
gian từ năm 742 đến năm 748, ông đã giúp chinh phục các
Thoán thị (爨氏)
mới nổi lên để tiêu diệt
thành An Ninh mới được xây dựng cách Vân Nam trấn hiện tại không xa.
Bì La Các qua đời năm 748,
trao lại
vương quyền cho Các La Phượng (閣羅鳳 Ko-lo-fong). Từ thời điểm
đó vương quốc mới đã được xác lập vững chắc tại châu Tháp Lý (塔里州*) hiện nay. Người Trung Quốc đã sợ bóng sợ vía
cái tiền đồ đang lớn mạnh ấy của ông, nhưng quân đội của họ đã phải chịu những trận phản công đẫm máu trong những năm 751 - 754, và Các La Phượng đã
tự đưa mình vào vòng tay của người
Tây Tạng, và họ đã phong cho ông là Đông đế (東帝), “Hoàng đế phương Đông”, và danh hiệu Tán Phổ Chung (贊普鍾 Tsan-p'ou-tchong), có nghĩa là “em út của Tán Phổ (Phật vương Tây Tạng)”, “tchong” trong ngôn ngữ của những người “man” ấy có nghĩa là trẻ hơn: đó có lẽ là từ “ôung” tiếng Tây Tạng. Năm 779, Các La Phụng chết và người kế
nhiệm ông là cháu trai của ông Dị Mâu Tầm (異牟尋 Yi-meou-siun). Ông này, là một người đặc biệt ngưỡng mộ Trung Quốc, có khuynh hướng hòa
bình và từ bỏ liên minh Tây Tạng; ông không thể thực hiện kế hoạch của mình ngay lập tức
được, nên lúc đầu được người Tây Tạng phong
danh hiệu Nhật Đông vương
(日東王Je-tong-wang), “vua mặt trời phương đông”**. Từ năm 791, ông gửi sứ giả
bày tỏ thần
phục Hoàng đế Trung Quốc; năm 794, ông đã đại thắng người Tây Tạng tại sông
Thần Xuyên (神川 Chen-ch'uan), thượng nguồn Dương Tử.
Những người kế nhiệm ông ít
gắn bó
giá trị đối với tình hữu
nghị của Trung Quốc; năm 829, cuộc chiến tiếp tục và một vị
tướng của Nam
Chiếu được
cử trấn giữ tại
cửa khẩu Thành Đô (成都). Người ta vẫn không dừng lại ở cách
thức thỏa
đáng này: do
sự hà thu lạm bổ của thái
thú Trung Quốc ở An Nam, các bộ lạc Nam
Vân Nam và thượng nguồn sông Hồng đã nổi loạn; các đội quân Nam Chiếu tham gia cùng họ, và vào năm
863 họ đã bao vây đô hộ phủ An
Nam, đó chính
là Hà Nội. Bị tướng Cao Biền 高駢 của Trung Quốc ngăn cản hướng Vân Nam, những kẻ xâm chiếm đã trở lại Tứ Xuyên
(四川 Ssu-ch'uan); họ chiếm Thành Đô, và Cao Biền 高駢 lại được triệu hồi để chinh phục họ. Bị kìm lại lần nữa vào năm 874, quân đội Nam
Chiếu đã thực hiện một mưu
toan mới ở hướng An Nam, sau đó quay
trở về biên giới Vân Nam
của họ; thời kỳ chinh phạt đã kết thúc [3]. Từ đó trở đi, quốc gia Nam Chiếu
tiếp
tục sống lay lắt. Từ thủ
phủ của mình, hiện tại là Đại Lý, Nam Chiếu đã mở rộng quyền thống trị của mình tới
ba mươi bảy bộ
tộc thuộc Đông Vân Nam,
nơi mà vào nửa sau thế kỷ thứ tám (765), Nam Chiếu đã thành lập một thủ phủ thứ hai thực sự là Thác Đông 拓東* (Côn
Minh ngày nay). Nhưng Nam
Chiếu đã không
còn quan tâm đến công việc của
chính Trung Quốc
nữa, và về phía họ, người Trung Quốc
sau thời kỳ hỗn loạn mà triều đại nhà Đường tiêu
tan vào đầu thế kỷ thứ mười,
đã quá bận tâm đến những bước tiến của các sắc dân Tungus (vùng Đông Bắc Trung Quốc) rất chú ý đến những gì đang xảy ra trên biên
giới phía tây nam của họ. Sự mở rộng của Trung Quốc về phía nam tiếp tục với
triều đại Nguyên Mông. Năm 1253 [4], trong cuộc xung đột đầu tiên của quân đội Hốt
Tất Liệt (忽必烈* Koubilai-khan) tương lai, vương quốc 大理 Đại Lý, người thừa kế thừa
Nam Chiếu cũ đã sụp đổ; tuy
nhiên người Nguyên
Mông đã công nhận vị vua bị
phế truất của Đại
Lý bằng tước hiệu danh dự Đại Vương
(महाराज*- Maharaja) [5].
Người ta cho rằng những người Nam
Chiếu này là người Thái [6]; nhưng câu hỏi nguyên
sơ này vẫn được bao phủ bởi những bất trắc nghiêm trọng. Chúng
ta biết
rằng, Nam
Chiếu đã thấm nhập sâu sắc nền văn minh Trung Quốc; nhưng chưa phải lúc đi sâu vào vấn đề mà tôi muốn nhấn mạnh hôm nay. Nhưng vì đây chủ
yếu là cách xâm nhập của Trung Quốc vào Ấn Độ theo đường
Miến Điện, nên
tôi muốn cố gắng nhóm lại
một số chỉ dẫn để cho thấy
rằng ảnh hưởng của Miến Điện và cùng với nó, ảnh hưởng của Hindu giáo
rất mạnh mẽ ở Phía tây và phía nam Đông
Dương đã phần nào đã
vượt qua những ngọn núi thượng nguồn sông Iraouaddy và thượng nguồn sông Salouen (怒江* Nộ Giang) gây cảm giác đến tận Vân Nam.
Thực
ra, các
văn bia Hindu
- nhân chứng tuyệt
vời cho ảnh hưởng
này - vẫn còn đang thiếu. Công trình văn khắc thực sự quan trọng duy nhất còn lại của Nam
Chiếu cổ, tấm bia 766 do E. Chavannes nghiên cứu, là tiếng Trung Quốc, được sáng
tác bởi một người tị nạn Trung Quốc [7]. Về tấm bia này, E. Chavannes cho rằng Nam Chiếu không có hệ thống chữ viết của riêng mình [8]. Tôi không biết ý kiến của ông có dựa trên
các văn bản chính thức mà tôi không được tiếp cận hay không, hay đó chỉ là kết quả của sự thiếu hiểu biết về
nơi mà chúng ta không
có bất kỳ tài liệu nào bằng
văn bản Nam
Chiếu. Vấn
đề, đối với tôi, vẫn
chưa được giải quyết. Gác
lại một bên các tô
vẽ về người Ma Toa (摩梭* Mosso), có ít nhất hai hệ thống chữ viết phi Hán được sử dụng ở Vân Nam: hệ
thống của người Lô
Lô (彝族* Di
tộc) và Bạch Di (白彝*). Người
ta chưa biết sự
ra đời của các
hệ thống này, chắc chắn phải quay lại vài thế kỷ; tuy nhiên, chúng ta cũng vẫn chưa biết thêm bất kỳ văn khắc nào đã được sử dụng; có thể là hệ
thống chữ viết Nam Chiếu, nếu nó đã từng tồn tại, cũng chỉ được sử dụng cho mục đích viết tay. Chúng
ta cũng
không chắc chắn những gì mà
hệ thống chữ viết 爨 Thoán (ts'ouan) được gọi là 韙 vĩ (phải, đúng*), được phát minh bởi một 阿毘 A Tỳ (A-p'i) nào đó; người Thoán của vương quốc Đại Lý đã sử dụng chúng từ thời Nguyên Mông; có khả năng đó là chữ viết của
người Lô Lô [9], nhưng vẫn còn đôi chút nghi ngờ. Nếu
đúng là trong huyện
Lộc Khuyến (祿勸 Lou Ch'iian),
châu Vũ Định (武定* Wu-ting) có một tấm bia được khắc trên đá, bằng
các ký tự Thoán [10], thì vấn đề sẽ được giải quyết khá dễ dàng. Cuối cùng, có thể
có thứ gì đó ở phía Miến Điện. Ở Pagan có một cột đá có khắc chữ vào thế kỷ thứ mười một, một mặt của cột
có một văn bản không rõ [11]. Ông Huber đã mang về một bản dập; văn bản này dường như liên quan đến các mẫu
tự có nguồn gốc Hindu;
không xa cột đá, một mảnh đá khác có khắc các mẫu tự giống như vậy [12]. Một câu hỏi đặt ra là vào thế kỷ thứ mười một tộc người nào ngoài người Peguans và Miến Điện, có thể là
chủ nhân của các văn bản Hindu được khắc tại Pagan, không ai cấm người ta nghĩ đến người Nam Chiếu [13].
Việc các tù trưởng Nam Chiếu đã thực sự vượt qua ranh
giới phía tây Vân Nam và
đóng một vai trò quan trọng trong các sự vụ của Thượng Miến Điện, chính
là những gì mà
các văn bản
trên không cho phép chúng ta
nghi ngờ. Sau chiến thắng của ông vào năm 754, Các La Phượng, khi thoát khỏi ách thống trị của Trung Quốc, đã
thấy rằng các
cuộc chiến
đấu của đế chế đã
tước bỏ khỏi ông mọi sợ hãi từ phía đông, ông chỉ
đạo các
đội quân của mình chống lại người 尋傳 Tầm Truyến (Siun-Chuan) [14] cư chiếm các thung lũng thượng nguồn sông Dương Tử và sông Irrawaddy, đồng thời chống lại vương quốc của
người Phiêu (驃 P'iao), còn gọi là Miến Điện [15]. Bằng vũ lực của mình, và nhờ vào sự gần gũi với các lãnh thổ kể trên, một văn bản khác của Lịch sử nhà Đường [16] viết rằng người Nam Chiếu luôn giữ quyền kiểm soát vương quốc Phiêu. Sau khi Dị Mưu Tầm thần
phục Trung Quốc vào cuối thế kỷ
thứ bảy (?*), Vương quốc Phiêu theo gương ông, và năm 802 gửi đến triều đình
Tây An Phủ (西安府* Si-ngan-fou) những
bài hát của
người Phiêu mà Tân
Đường thư có chép một đoạn dài [17]. Năm 832, Nam Chiếu một lần nữa xâm chiếm vương quốc Phiêu và trục xuất 3.000 tù nhân đến
Thác Đông (拓東* Tche-tong), Vân Nam trấn ngày nay [18]. Vào đầu năm 863, quân đội Nam Chiếu đã chiếm được Tống
Bình* (Hà Nội), những “người man” (野蠻 dã man) vẫn sống ở phía tây Tầm Truyến (尋傳 Siun-tch'ouan), cũng tham gia vào đội quân xâm lược, và lập trại trên bờ sông Tô Lịch [19]. Nếu truyền thuyết có
thể tin được, thì Nam Chiếu thậm chí đã đến hỗ trợ cho người Miến Điện trong một cuộc chiến mà họ ủng hộ chống
lại một đạo quân do vua Ceylan (Sri
Lanka*) đưa đến. [20]
Vào những năm 809-815,
khi những câu chuyện muộn như Nan chao ye che (南詔野史 Nam Chiếu dã sử) can thiệp vào các lĩnh vực này, thì người ta ít gọi Miến Điện trong những
bản văn này bằng cái tên Miến (緬Mien) mà người Trung Quốc dường
như đã biết đến sớm nhất trong thế kỷ
thứ mười hai [21]. Nhưng sau đó Mahavamsa (महावंश* Đại Biên niên sử Sri Lanka)
[22] kể tương đối chính xác việc
vua Parakrama Bahu
(पराक्रम बहु*] đưa quân đến Pegu trong nửa cuối của thế kỷ thứ mười hai [23]. Truyền thống của các tác giả Trung Quốc, về
mặt niên đại là lầm
lẫn, nhưng
biết đâu lại có thể có một chút sự thật.
_____________________________________
Nguồn: Paul Pelliot 1904. Deux
itinéraires de Chine en Inde à la fin du VIIIe siècle, Bulletin de l'Ecole française
d'Extrême-Orient. Tome 4, 1904. pp. 131-413. (Paul Pelliot, Professeur à l'Ecole française ď
'Extrême-Orient).
Tác giả: Paul Pelliot (和伯希和 Hòa bá Hy hòa) (1878 – 1945) là nhà Hán học nổi tiếng
người Pháp, học trò của Sylvain Lévi và Édouard Chavannes. Ông làm việc tại
Viện Viễn đông Bác cổ Pháp - École Franҫaise d’Extrême Orient tại Hà Nội, và
năm 1900 ông đã được gửi đi Bắc Kinh tìm kiếm sách cho thư viện của Viện. Thời
gian ở Bắc Kinh ông đã bị bắt giữ trong Phong trào 義和團 Nghĩa Hòa Đoàn, và bị kẹt trong giai
đoạn phong tỏa các tòa công sứ ngoại quốc.
Pelliot đã thực hiện hai vụ đột phá lãnh thổ đối phương trong thời gian
bị phong tỏa. Vì hành động dũng cảm đó, ông đã được thưởng huân chương cao quý
nhất Bắc đẩu Bội tinh của Cộng hòa Pháp. Năm 22 tuổi ông trở về Hà Nội và nhận ghế giáo sư
Hán học tại Viện, sau đó trở thành giáo sư Hán học tại Collège de France, là nơi tập trung những học giả lỗi lạc và danh giá nhất
của nước Pháp. Ông viết tác phẩm lớn Deux itinéraires
de Chine en Inde à la fin du VIIIe siècle này khi mới 25 tuổi.
Ghi chú
của người dịch:
* Các từ có đánh dấu sao [*] là do tôi,
Hà Hữu Nga, trộm tìm, dịch sang tiếng Phạn, tiếng Hán, và tiếng Việt để tiện
cho bản thân trong việc nghiên cứu, so sánh và xác định nghĩa của từ mà thôi.
**
Trong khi đó sách Nam Chiếu dã sử của Dương Thận đời Minh chép:
“德宗甲子興元元年,牟尋遷居史城,卽大厘城。改號大理國,自稱日東王.”Đức tông giáp tý hưng nguyên nguyên niên, mâu tầm thiên cư sử thành, tức
đại lý thành, cải hiệu đại lý quốc, tự xưng nhật đông
vương. Dịch nghĩa: Đường Đức tông, Giáp
Tý, năm Hưng Nguyên thứ nhất (784), Mưu Tầm thiên đô về Sử thành, tức thành Đại
Lý, đổi quốc hiệu là Đại Lý quốc, tự xưng là Nhật Đông
vương. 南詔野史。上巻,楊慎編輯;胡蔚訂正,Nam Chiếu dã sử, Thượng quyển; Dương Thận biên tập ; Hồ
Úy đính chính)
Chú
thích
1. Parker, The old Thai or Shan empire of Western Yunnan, dans China Review,
xx, 337 ss. ; E. Rocher, Histoire des
princes du Yunnan, dans Toung pao, x, 1-32, 115-154, 337-368, 437-458.
2. Vì vậy, nói đúng ra, người ta không nên nói là có “các vị vua Nam Chiếu”, vì Nam Chiếu là một tước hiệu chứ không phải là tên một
nhà nước. Nhưng thực tế người
Trung Quốc đã đặt tên cho đất nước này, và ngay cả cái danh hiệu vào cuối thế kỷ thứ tám
mà vị hoàng đế Trung Quốc phong
cho Dị Mâu Tầm là 南詔王 Nam Chiếu Vương "Vua Nam
Chiếu” (Tân
Đường thư, 222 上, tr. 4). Vì thuật ngữ này
thuận tiện, nên
tôi sẽ sử dụng nó.
3. Đối với tất cả lịch sử của Nam Chiếu dưới thời nhà Đường, tôi đã sử dụng, ngoài các bài viết của các ông Parker và Rocher, từ tr. 222 của sách Tân Đường thư và bản dịch của ông Parker trong Tạp chí Trung Quốc, tr. 72-106, với cái tên The early Laos in China – Những người Lào sớm ở Trung Quốc.
4. Vào năm 1253, Hốt Tất Liệt
chiếm Đại
Lý. Yule (Marco Polo, h,
80) đưa ra niên đại ít chính xác hơn, 1253-1254; nhưng lại là sai lầm khi ông Cordier, trong một ghi
chú bổ sung dường như đã
không phát
hiện ra niên
đại đó mâu thuẫn với
niên đại của Yule (ibid., ii, 79) là “vào năm 1252 vương quốc Đại
Lý đã bị quân
Nguyên Mông phá hủy. Xem: Yuan che (元史* Nguyên sử), ni, 2 r° et v°; Yuan che
lei pien (元史類編* Nguyên sử Loại biên), k. 42, p. 56
v°.
5. Ông H. Cordier (Marco Polo, n, 79) nói rằng Hoàng đế Che-tsou
(元世祖* Nguyên
Thế tổ) đã ban cho
vị vua bị truất ngôi của Đại Lý danh hiệu Maharaja; nhưng phải
đến năm 1260
ông mới trở thành hoàng đế Hốt Tất
Liệt Thế tổ. Đó là Mông Kha* (蒙哥 Nguyên Hiến Tông 元憲宗*), trị vì trong chiến dịch của Hốt
Tất Liệt ở Vân Nam, và từ
năm 1256 tước hiệu Maharaja cho nhà vua bị phế truất của Đại Lý xuất hiện trong các biên niên sử Nguyên
Mông (元史* Nguyên sử, iii, 3 v °).
6. Cf. Parker, The old Thai or Shan empire of Western Yunnan; Pierre Lefèvre Pontalis, L'invasion thaïe en Indo-Chine, dans Toung pao, vin, 57.
7. Cf. Chavannes, Une inscription duroyaume de Nan-tchao, dans. A., nov.-déc. 1900, pp. 381 ss.
8. Loc.
laud., p. 390.
9. Cf. Devéria, La Frontière sino-annamite, (Biên giới
Trung Quốc – An Nam) p. 127; Les Lolos et
les Miao-tze (Người Lô Lô và Miêu tộc) dans J. A., sept.-oct. 1891, pp.
358-359. Trong l’Athenaeum ngày 23 tháng 9 năm 1882, Terrien de
Lacouperie công bố một
bài viết mà tôi không xếp trong danh mục tham khảo của tôi, có nhan đề là Lolo not
connected with Vei Characters – Người Lô Lô không liên
quan đến các ký tự Vei (韙 vĩ:
phải, đúng*). A-p'i
(阿毘 A Tỳ*) thuộc về bộ tộc Nạp Cấu (納 垢Na keou) là nơi mà người Trung Quốc xếp vào quận thứ cấp hiện tại
là Mã Long (馬龍Ma-long). Nạp Cấu là một trong 37 bộ lạc hình thành nên một loại liên minh ở phía đông Vân Nam thuộc
người Nam Chiếu (xem Toung pao, x, 132).
10. Văn khắc này được đề cập trong Tục
Vân Nam Thống chí cảo (續雲南通志稿 Sin yun nan ťong iche kao) được xuất bản vào năm 1901 (xem B. E. F. E.-O, m, 751), auk. 192, p. 33 ro.
11. Cột đá này hình tứ giác; một mặt là một dòng chữ Miến Điện, mặt
khác có một dòng chữ mờ, mặt
thứ ba là
một dòng chữ Pégouan (Pegu là tên một
khu vực cách Yangoon khoảng 80km về phía đông*), mặt cuối cùng là những ký tự chưa được biết rõ. Dòng chữ Miến Điện đã được dịch sang các văn
tự Pagan, Piniya và Ava, Rangoon, Government printing, 1899,
in-8°, à la p. 97. Đó là một kính vật mà Hoàng tử Râjakumâra, con trai của vua
Sîritribhavanàtityadhammarâjà (Critribhuvanàdityadharmaràja) và Hoàng
hậu Trilokavadhamsakâdevi
(Trilokàvatamsakadevi) làm vào năm 1084 SCN, sau cái chết của vua cha. Văn
bản Pali tương
tự với văn
bản Miến Điện. Về
phần văn
tự Pégouan chưa
có học giả người Anh nào nghiên cứu, nên các bản
văn khắc Pégouan, trong đó có
những văn bia lâu đời nhất trên
toàn vùng đồng bằng Ấn-Hằng
của Ấn Độ cho đến nay vẫn còn
chưa được để ý
đến.
12. Cf. Inscriptions of Pagan, p. 98.
13. Nếu không tìm thấy văn bản đặc
biệt nào tại Nam Chiếu, thì có khả năng là họ đã
sử dụng một cách thông thường các ký
tự Miến Điện.
Do đó, người Pa Dí
đã sử dụng nó vào thế kỷ mười ba, và ngày nay bảng
chữ cái Pa Dí có nguồn gốc từ bảng chữ cái Miến Điện.
Xem Devéria, Biên giới Trung Quốc – An Nam, trang. 103.
14. Chiến dịch chống lại người
Tầm Truyến (尋傳 Siun-tch'ouan) này được nhắc đến hai lần trong tấm bia
năm 766 (Chiivaunes, Une inscription du royaume de
Nan-tchao, pp. 430, 438), nơi nó được đặt trong các sự kiện từ năm 757 và các sự kiện
khác, năm 763. Điều này phù
hợp hoàn toàn với các ghi chép của Cựu Đường thư (к. 197, p.5 v) và Tân Đường thư (к. 222上, p.2
vo),
đặt sự kiện
này ngay
sau cuộc nổi dậy
của An Lộc Sơn (安祿山 755-757). Sách Man thư (iii, 5), ghi lại câu chuyện không theo trật tự thời gian, cũng nói về chiến dịch chống lại người
Tầm Truyến (尋傳 Siun-tch'ouan) này trước khi nhắc đến thất bại của Tiên
Vu Trọng Thông (鮮于仲通*), nhưng không đưa ra một niên đại chính xác. Một mô tả ngắn về
người Tầm Truyến được lồng trong văn bản Tân Đường
thư sau khi
đề cập đến tên của họ. Trong bản văn khắc năm 766 (Chavannes, loc. Laud., tr. 431), có nói rằng Tầm Truyến “nam tiếp giáp với P'o-hai, phía tây thông với Đại
Tần (Ta-ts'in)”. P'o-hai có nghĩa là
nói đến biển,
nhưng tôi không tin rằng văn bản đó, như ông Chavannes nói
trong ghi chú, rằng người Tầm Truyến “sát với” biển về phía nam. Từ thông (通 tong), là “thông với”, được sử dụng cho các vương quốc thực sự giáp giới với nhau, tuy nhiên các nước so với Trung Quốc, có
mở ra
con đường đến
với các nước khác
cũng có nghĩa là thông với nhau. Trong mọi trường hợp, các văn bản của Man thư không hề để
lại chút nghi ngờ
nào về việc Tầm Truyến nằm
trong các thung lũng vùng
thượng nguồn sông Dương Tử và sông
lraouaddy (Man thư, k. 2, p. 3r°; k. 4, p. 6 v°); nếu người
Tầm Truyến thông với biển thì
đó có nghĩa là qua Miến Điện.
15. Vấn đề vương quốc Phiêu (驃 P'iao) cũng sẽ được thảo luận thêm. Tân Đường thư (к. 上 222, p. 2 vo) và Man thư (k. 3, tr. 5) đề cập đến việc
thần phục Trung Quốc của người Phiêu cùng với người Tầm Truyến, nhưng nước Phiêu lại không có tên trong văn bia năm 766 hoặc trong Cựu
Đường thư, trong khi Man thư vẫn nói về các chiến dịch của Các La Phượng ở Phiêu quốc trong k. 10, p. 1 vo.
16. Sin T’ang chou, к. 222下, p. 5 го
17. Cựu Đường thư, к. 197, p. 7 vo
; Tân Đường thư, к. 222下*, pp. 5
et ss. Tân Đường thư lại chỉ viết về việc đi sứ này trong thời Trinh Nguyên (貞元 785-805), nhưng không nói rõ năm nào. Cựu Đường
thư, trong đoạn viết về Phiêu quốc (k. 197. p. 7 v°), nói đó là vào năm thứ 8
(792); nhưng bằng cách tham khảo
biên niên sử của chính cuốn sách đó (k 13, p 14 ro), chúng tôi thấy cần phải sửa năm
thứ 8 bằng
năm thứ
18, đó là
năm 802. Chính
sự kiện này trong năm 802 đã được ghi trong Tư trị
Thông giám (Tseu tche t’ong kien 資治通鑒*) (k. 236, p. 2r °).
18. Tân Đường thư, к. 222下, p. 7 v° ; Man thư, k. 10, p. 2 ro. Man thư (k. 10, p.
1 v°) cũng nói về một trận
chiến mà Nam
Chiếu đã chỉ đạo vào
năm 835 chống lại vương quốc Mi Thần (彌 臣) trên vịnh
Bengal và kết quả là 3.000 tù nhân được cho là đã bị
bóc lột bằng cách đãi cát tìm
vàng trên núi Li Thủy (麗水). Nhưng có lẽ có sự nhầm lẫn với cuộc
chiến năm
832.
19. Bọn Dã man, hoang dã, hoặc Lõa Man (裸蠻), thường được nhắc
đến trong ghi
chép của
Tân Đường thư về người Tầm Truyến (尋傳 Siun-tch'ouan)
(Chavannes, loc. Laud
431). Nó có thể là Kachin, vẫn được người Trung Quốc gọi là Dã nhân (野人), không có chỉ
định khác (Scott, Gazetteer,
I, i, 369). Dã nhân được nhắc đến nhiều lần trong Man thư, ở đó cũng dành cho họ một đoạn riêng biệt (k. 4, p.7 ro). Họ được thể hiện như những kẻ man rợ thực sự sống
cách người Tầm Truyến 300 hải lí về phía; họ thực hành chế độ đa phu; Các La Phượng lần đầu tiên bắt họ thần phục trong cuộc chinh phạt người Tầm Truyến của
ông. Đây chính là văn bản của
Man thư giúp ta biết sự hiện diện của Dã nhân ở Tống Bình* (Hà Nội) năm 863.
20. Terran Lacouperie (Cái nôi của chủng người Shan - The
Cradle of the Shan race, p. 27) nói rằng tổ tiên của người Karen ngày nay “bị trục xuất khỏi Trung Quốc theo
đường Yong-chang (Vân Nam Đông
[sic]), số lượng 200.000 gia đình, vào năm 778 SCN, J.C nói đến vị vua hùng mạnh của Nam Chiếu, khi ông phá hủy phần phía
tây của nước Thoán (ở phía bắc Quảng Tây [sic])”. Đây là tưởng tượng thuần túy, và tôi thậm
chí cũng không đề cập đến phát minh này khi nó đã được đăng trong Từ điển Địa lý tuyệt vời về Thượng Miến Điện và các bang Shan của Ngài J. Scott (I, i, 193).
21. Xem ấn bản Nam Chiếu dã sử (南詔野史, auk. 8, pp. 14, ro, trong Yun
nan
pei cheng tche; ấn bản Điền Khảo (滇攷) của Phùng Tô (馮 甦) và к. 12, p. 6 vo, cũng trong công
trình đó.
22. Theo
sách Độc sử phương dư kỷ yếu (讀史方輿紀要 k. 119, p. 2 v °), vị sứ thần đầu tiên của người Miến (緬) đến Trung Quốc được biết là từ năm 1104, sớm hơn một năm so với sứ thần Pagan (浦甘Phổ
Cam) thực sự được đề
cập đến trong Tống sử (宋史 k 20, p 2ro). Có lẽ có một sứ thần khác của người
Miến trong thời Thiệu Hưng (紹興, 1131-1162). Tôi không tìm thấy bất kỳ ghi
chép nào trong Tống
sử về vị sứ thần
năm 1104 hoặc 1131-1162.
23. Mahāvamsa, trans. Wijesinha, ch. 76, tr. 229-232; Khys Davids, The conquest of south India in the twelfth
century by Parakrama Bahu, in J. A. S., b. xli, pp. 197-199. Biên niên sử Miến Điện không nói về cuộc xâm
lăng Sinhala này.
Phayre, Lịch sử Miến Điện, ấn bản giá rẻ, London, Trubner, 1884, nhỏ trong -8
°, tr. 50.
Cháu chào bác ạ.
Trả lờiXóaCháu cảm ơn bác vì những bài viết, bài dich rất thú vị của bác trên blog này. Thực sự là cháu làm độc giả của bác đã rất lâu rồi nhưng hôm nay cháu mới dám xuất lộ như thế này ạ.
Cháu chúc bác mãi mạnh khỏe và hạnh phúc trong cuộc sống.
Thân mến
Cháu Mạnh
Trả lờiXóaRất vui được Manhkch ghé thăm và động viên, mong có dịp được gặp Mạnh ở ngoái đời để trò chuyện. Hình như cháu cũng dân KCH?
Thân
Kattigara
Bác thân mến,
XóaCháu tốt nghiệp ở Bộ môn Khảo cổ học năm 2012 của trường Nhân văn Hà Nội ạ. Hiện cháu đang làm nghiên cứu sinh năm 2 về ngành quản lí tài nguyên di sản bên Nhật. Ngoài những bài về Champa hay Óc Eo, Phù Nam cháu rất hay vào trang của bác để đọc các bài về lý thuyết khảo cổ học, cái mà người Việt chúng ta còn thiếu và yếu. Những bài viết, bài dịch của bác góp phần bổ khuyết cho cháu, mở ra nhiều chân trời mới trong học thuật cho cháu trong những năm qua.
Cháu cũng hi vọng sớm được gặp bác!
Thân mến,
Cháu Mạnh
Rất vui được có một đồng nghiệp như cháu. Chúc cháu thành công với sự nghiệp của mình. Nhân Tết tây, chúc cháu hạnh phúc và thành đạt. Mong gặp cháu một ngày nào đó ở VN.
Trả lờiXóaThân
Kattigara