1.5. Bối cảnh lịch sử của quan niệm biến đổi xã hội
Một số ý tưởng về biến đổi xã hội đã được phát triển trong nhiều
nền văn hoá và giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong đó có ba ý tưởng được coi
là cơ bản nhất: 1) Tư tưởng về sự suy thoái hoặc thoái hóa; 2) Tư tưởng thay đổi theo chu kỳ, một mô hình tăng trưởng và suy thoái bao gồm các giai đoạn tiếp diễn lặp đi lặp lại; và 3) Tư tưởng tiến bộ liên tục. Ba tư tưởng này đã xuất hiện trong thời cổ Hy Lạp và La Mã và đã đặc trưng cho tư duy
xã hội phương Tây kể từ thời điểm đó. Tuy nhiên, khái niệm tiến bộ đã trở thành tư tưởng có ảnh hưởng nhất, đặc biệt là từ Kỷ
nguyên Khai sáng của thế kỷ 17 và 18. Các nhà tư
tưởng xã hội như Anne-Robert-Jacques Turgot và Hầu tước de Condorcet ở Pháp; Adam Smith và John Millar ở Scotland đã đưa ra những lý
thuyết tiên tiến về sự tiến bộ của tri thức và công nghệ của con người
(Ekelund, R. & Hebert, R. (2007).
Tiến bộ cũng là ý tưởng quan trọng trong các lý thuyết tiến hóa xã hội của
thế kỷ 19, và tiến hóa luận là cốt lõi
chung được các lý thuyết xã hội có ảnh hưởng nhất trong
thế kỷ đó cùng chia sẻ. Tiến hoá luận cho rằng con người tiến triển theo một hướng phát triển, và
quá trình phát triển này mang tính
tiền định và không thể tránh khỏi, vì nó tương hợp với các quy luật nhất định. Trong quá trình phát triển này có một số xã hội tiến bộ hơn so với các xã hội khác, và
phương Tây là xã hội phát triển cao nhất,
do đó nó ấn định tương lai của phần còn lại của thế giới. Từ
đó tư tưởng này luôn bị tranh cãi và bị bác bỏ. Theo một cách tiếp cận khác, triết gia Pháp
Auguste Comte đã đưa ra “quy luật ba giai
đoạn”, theo đó các xã hội con người tiến bộ từ
giai đoạn thần học, bị chi phối bởi tôn giáo, thông qua giai đoạn siêu hình,
trong đó tư duy tư biện trừu tượng
là nổi bật nhất; tiếp đến là giai đoạn
thực chứng, trong đó các lý thuyết khoa học dựa trên thực nghiệm chiếm ưu thế
(Comte, A. 1974; Lepenies Wolf, 2010).
Khác với Comte liên kết tiến hoá xã hội với tiến hóa sinh học, Herbert Spencer đã phát triển một lý thuyết tiến hóa xã hội bao quát
hơn. Theo Spencer, các cơ
thể sinh học và xã hội loài người tuân theo cùng
một quy luật tiến hoá tự nhiên phổ quát,
đó là: “sự thay đổi từ một trạng thái tương đối vô hạn, rời rạc, đồng nhất tính đến một
trạng thái tương đối rõ ràng, mạch lạc và không đồng nhất”
(Carneiro, Robert L. and Perrin, Robert G. 2005). Nói cách khác, khi các xã hội phát triển về kích cỡ, thì chúng trở nên phức tạp hơn; các bộ phận của chúng phân chia, chuyên về các chức năng khác nhau, và do đó trở nên phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn. Tư tưởng tiến hóa luận cũng thống trị lĩnh vực mới của nhân học xã hội và văn hoá vào nửa sau thế kỷ 19. Các nhà
nhân học như Sir Edward Burnett Tylor và Lewis Henry Morgan phân loại các xã
hội đương đại dựa trên quy mô tiến hóa. Tylor đã xác
lập một quá trình tiến hóa của những ý tưởng tôn giáo từ vạn
vật hữu linh qua đa thần giáo
đến chủ thuyết độc thần. Morgan đã xếp hạng
các xã hội từ “mông muội” qua “dã
man” đến “văn minh” và phân loại các xã hội đó theo trình độ công nghệ hoặc các nguồn sinh nhai của họ, được ông kết nối với hệ thống thân tộc. Ông cho rằng trước chế độ hôn nhân một vợ một chồng là chế độ hôn nhân đa thê và trước chế độ phụ hệ là chế độ mẫu
hệ (Knight, C. 2008; Stern, Bernhard J. 1946).
Karl Marx và Friedrich Engels chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những tư
tưởng tiến hóa. Sự phân biệt Marxian giữa chủ
nghĩa cộng sản nguyên thủy, phương thức sản xuất châu Á, chế độ nô lệ cổ đại, chế độ phong kiến, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội tương
lai có thể được diễn giải như một
danh mục các giai đoạn trong quá
trình phát triển tiến hóa luận. (Mặc dù phương thức sản xuất châu Á không thật tương hợp với lược đồ này). Marx và Engels đã có ấn tượng mạnh với lý thuyết tiến hóa nhân học Morgan, điều này đã trở nên
hiển nhiên trong cuốn sách của Engels, Nguồn gốc của gia đình, Chế độ tư hữu
và Nhà nước (1884). Tính độc đáo của lý thuyết Marxian về phát triển xã hội nằm
trong sự kết hợp giữa phép biện chứng và
quá trình tiệm tiến. Theo quan
điểm của Marx, phát triển xã hội là một quá trình biện chứng: quá trình chuyển
đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác đã diễn ra thông qua một cuộc chuyển
đổi mang tính cách mạng, mà trước đó là sự suy thoái ngày
càng tăng của xã hội và càng ngày cuộc đấu tranh giai cấp càng trở nên
mạnh mẽ. Nền tảng của sự phát triển mang
tính đứt đoạn này chính là sự phát triển dần dần của các lực lượng sản xuất (Althusser, Louis 2014).
Marx còn chịu ảnh hưởng
bởi dòng nước ngược của Chủ
nghĩa Lãng mạn, vốn đối lập với tư tưởng tiến bộ. Ảnh hưởng này
thể hiện rất rõ ràng trong quan niệm của Marx về sự
tha hóa, một hệ quả của quá trình phát triển xã hội, làm cho con người bắt
đầu tách khỏi các lực lượng xã hội mà họ đã tạo ra bằng
các hoạt động của chính họ. Tuy nhiên, phản tiến bộ luận của chủ nghĩa lãng mạn lại mạnh hơn nhiều trong các công
trình của các nhà lý thuyết xã hội ở thế kỷ 19 như nhà xã hội học người Đức Ferdinand
Tönnies. Ông phân biệt giữa cộng đồng (Gemeinschaft)
- trong đó mọi người bị ràng buộc với nhau bởi các truyền thống chung và các mối gắn bó quan hệ tình cảm - và xã hội (Gesellschaft), trong đó các
quan hệ xã hội đã trở thành các
quan hệ hợp đồng, duy lý, và không mang tính tình cảm
(Bond N. 1991; Clausen Lars, Carsten Schlüter 1991). Émile Durkheim và Max Weber, là
những nhà xã hội học bắt đầu sự nghiệp của họ vào
cuối thế kỷ 19, lại cho thấy sự mâu thuẫn đối với những ý tưởng tiến bộ. Durkheim coi phân công lao động gia tăng là một quá trình cơ bản, bắt nguồn từ
chủ nghĩa cá nhân hiện đại có thể dẫn đến tình trạng “vô tổ chức” hoặc thiếu các chuẩn mực đạo đức
(Giddens, Anthony (ed.) 1986). Weber đã
bác bỏ tiến hóa luận bằng cách lập
luận rằng sự phát triển của xã hội phương Tây hoàn toàn khác với sự phát triển
của các nền văn minh khác và vì vậy mà là độc nhất về phương diện lịch sử. Theo Weber, phương Tây được đặc trưng bởi một
loại lý tính duy nhất, đã tạo dựng nên chủ nghĩa tư bản hiện đại, khoa học hiện đại, và quy
luật hợp lý, nhưng cũng tạo ra những tiêu cực, đó là “làm khô cứng thế giới” và xã hội ngày càng quan liêu hóa (Giddens, Anthony 1971).
Tác phẩm của Durkheim, Weber và các nhà lý thuyết xã hội khác vào
đầu thế kỷ XX đã đánh dấu sự chuyển đổi từ thuyết tiến hóa sang những
lý thuyết tĩnh hơn. Các lý thuyết tiến hóa đã bị chỉ trích dựa trên cơ
sở thực nghiệm, và có thể bị bác bỏ bởi một số lượng lớn các phát hiện
nghiên cứu, và vì quyết định luận
cũng như chủ nghĩa lạc quan lấy các mô hình phương Tây làm trung tâm. Các lý thuyết biến đổi xã hội theo chu kỳ lại phủ nhận tiến bộ lâu dài đã trở nên phổ biến trong nửa
đầu của thế kỷ XX. Đó là lý thuyết của nhà kinh tế và xã hội học người Ý Vilfredo Pareto về “sự lưu chuyển của giới tinh hoa” và lý thuyết của Oswald Spengler và Arnold Toynbee về chu kỳ sống của
các nền văn minh. Giáo sư Pitirim Sorokin của
Đại học Harvard đã phát triển một lý thuyết tuần hoàn
về sự biến đổi văn hoá ở phương Tây, miêu tả sự lặp đi
lặp lại của quá trình biến đổi từ
văn hóa mang tính tư tưởng tới văn hóa mang tính lý tưởng, sau đó là văn hóa mang tính tri giác, rồi lại quay trở lại (Sorokin P. 1937, 1947, 1957). Mặc dù mối
quan tâm đến biến đổi xã hội dài hạn không bao giờ biến mất, nhưng từ năm 1920 đến những năm
1950, chức năng luận, bằng
cách nhấn mạnh vào một hệ thống xã hội phụ thuộc, đã trở thành mô hình chi
phối cả trong nhân học học và trong xã hội học. “Tiến hóa xã hội” đã được thay thế cho khái niệm tổng quát và trung lập “biến
đổi xã hội”. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về biến đổi xã hội dài hạn đã hồi sinh trong những năm 1950 và tiếp tục phát triển
trong thập kỷ 60 và 70. Các lý thuyết tân tiến hóa luận đã được một
số nhà nhân học khẳng định, bao gồm Ralph Linton, Leslie A. White, Julian H.
Steward, Marshall D. Sahlins, và Elman Rogers Service. Các tác giả này chủ
trương ý tưởng về tiến hóa xã hội như là một sự phát
triển dài hạn, kể cả tiến
hóa theo các mô thức và tiến hóa tích lũy (White, Leslie A. (1959). Không giống như thuyết tiến hóa thế kỷ 19, tân tiến hóa
luận không cho
rằng tất cả các xã hội đều trải qua cùng một giai đoạn phát triển. Thay vào đó,
người ta chú ý nhiều tới các biến thể giữa các xã hội cũng như tới các mối quan hệ ảnh hưởng giữa chúng. Và
việc chú ý đến các mối quan hệ giữa các xã hội đã làm cho khái niệm tích hợp văn hóa (acculturation) đã trở nên nổi tiếng và rất thông dụng. Thêm vào đó, tiến hóa xã hội không được coi là tiền
định hoặc không thể tránh được,
mà được xem xét trong khuôn khổ của các
khả năng, và phát triển tiến hóa không được
coi là ngang bằng với tiến bộ (Sahlins, Marshall D. 1960).
Sự phục hồi mối quan tâm đến biến đổi xã hội lâu dài đã được củng cố bởi những nỗ lực nhằm giải thích những khoảng chênh lệch
lớn giữa các nước giàu và nước nghèo. Trong những
năm 1950 và 60, các nhà xã hội học và các nhà kinh tế phương Tây đã phát triển
các lý thuyết hiện đại hóa để nhận thức những vấn đề của cái gọi là các nước kém phát triển. Tuy
nhiên, một số lý thuyết hiện đại hóa đã bị chỉ trích là áp
đặt cho các nước nghèo chỉ có thể và nên phát triển hoặc hiện đại hóa theo cách của
các xã hội phương Tây (Harrison, D. (1988). Các lý
thuyết hiện đại hoá cũng đã bị chỉ trích vì thiếu quan tâm đến các
quan hệ quyền lực quốc tế, trong đó các nước
giàu chiếm ưu thế hơn hẳn so với những nước
nghèo (Allen T, Thomas A (1992; Hout, W. 1993; Kenneth, A. 2006;
Coetzee KJ, Graaf J, Heindricks F, Wood G 2007). Các mối quan hệ này đã được chú ý bởi các lý thuyết gần
đây về sự phụ thuộc quốc tế, điển hình là “hệ thống tư bản thế giới” được nhà xã hội học người Mỹ Immanuel Wallerstein
(Wallerstein, I. 1974) mô tả. Tuy nhiên, lý thuyết hệ thống thế giới của ông đã bị tấn
công vì những lý do thực nghiệm và vì sự thất bại của nó trong việc giải thích
cho sự sụp đổ của các chế độ Xô viết và sự vận động tuần tự đến chủ nghĩa tư bản và nền dân chủ. Lý thuyết của
Wallerstein còn bị chỉ trích vì
đã không giải thích được sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Thế giới Thứ ba (Worsley P. 1979; Pieterse
N.J. 1988; Bairoch P. 1995; Waites B. 1999).
1.6. Các mô thức biến đổi xã hội
Các lý thuyết về biến đổi xã hội, cả cũ và mới, thường cho rằng
quá trình biến đổi xã hội không tùy tiện,
mà ở một mức độ nhất định,
đó là các biến đổi thường xuyên
hoặc theo khuôn mẫu. Ba ý tưởng truyền thống về biến đổi xã hội - suy giảm, biến đổi theo chu kỳ và tiến bộ - đã ảnh hưởng đáng
kể đến các lý thuyết hiện đại. Tuy nhiên, vì những
lý thuyết này không được xác định về phương diện khoa học, nên chúng không đưa ra được những phân biệt rõ ràng giữa sự suy giảm và tiến bộ. Trên thực
tế, những phẩm chất của sự suy giảm và tiến bộ, về phương
diện khoa học, không thể chỉ bắt nguồn
từ các quan sát thực nghiệm, mà thay vào đó, nó được xác định bằng các đánh giá định tính và đánh giá giá
trị. Nếu nghiên cứu về biến đổi xã hội phải được thực hiện trong khuôn khổ khoa học và phi quy chuẩn, thì chỉ có thể xem xét hai mô hình biến đổi xã hội: là biến đổi theo chu kỳ, như đã xác định ở trên, và
biến đổi một chiều. Thông thường khoảng thời gian của
biến đổi xác định mô thức nào được quan sát (Ginsberg M. 1958; Edari R. 1976).
Mô thức biến đổi tuần hoàn: Phần lớn cuộc sống xã hội thông thường được tổ chức theo
những biến đổi chu kỳ: các
biến đổi của những ngày, tuần, tháng và năm. Những biến đổi theo chu kỳ ngắn hạn này có thể được coi là những
điều kiện cần thiết cho sự ổn định về cấu trúc. Những biến đổi khác ít nhiều có mô thức chu kỳ thì ít có khả năng dự báo hơn. Một ví dụ là chu kỳ kinh doanh, một
hiện tượng tái diễn của chủ nghĩa tư bản, có vẻ ít nhiều theo
mô thức, nhưng lại khó dự đoán.
Một lý thuyết nổi bật về chu kỳ kinh doanh là của nhà kinh tế học Xô
viết Nikolay D. Kondratyev, ông đã cố gắng cho thấy tính lặp lại của những đợt sóng kinh tế bùng nổ và suy thoái kinh tế
trên quy mô quốc tế (Kondratieff N. (1935, 2002, 2004). Ông vẽ biểu đồ sóng từ cuối thế kỷ 18, với mỗi đợt hoàn
chỉnh gồm khoảng thời gian khoảng 50 năm. Tuy nhiên, các nghiên cứu sau đó đã
chỉ ra rằng các mô thức biến đổi ở các quốc
gia khác nhau thì không giống nhau. Những biến đổi theo chu kỳ dài hạn được đề cập đến trong các lý
thuyết về sự ra đời, tăng trưởng, thịnh vượng, suy giảm và sự tàn lụi của các nền văn minh. Toynbee đã xây
dựng lịch sử thế giới bằng cách này trong những tập
đầu tiên của tổng tập Nghiên cứu Lịch sử (1934-61), giống như Spengler đã
thực hiện trong công trình Sự suy tàn của phương Tây (1918-22). Những lý thuyết này
đã bị chỉ trích vì đã hình dung nền văn minh như những thực thể tự nhiên với
những ranh giới rõ ràng, bằng
lối tư duy bỏ qua các mối tương quan giữa các nền văn minh
(Toynbee, Arnold J. 1939; McIntire, C. T.;
Perry, Marvin, eds., 1989).
Mô thức biến đổi một chiều: Kiểu biến đổi này ít nhiều mang tính liên tục theo cùng một hướng, thường mang tính tích lũy và ẩn chứa sự tăng trưởng, chẳng hạn như mật độ dân số, quy mô tổ
chức xã hội, hoặc cấp độ sản xuất. Tuy nhiên, hướng biến đổi này có thể là hướng suy giảm hoặc kết hợp tăng trưởng và suy
giảm. Một ví dụ của quá trình kết
hợp này là thứ mà nhà nhân loại học người Mỹ Clifford Geertz đã gọi là “xoắn
ốc”, được phát hiện ra trong một số xã hội nông nghiệp khi tăng
trưởng dân số song hành cùng với sự suy giảm mức độ thịnh vượng tính theo đầu người. Tuy nhiên, một sự biến đổi khác có thể là sự chuyển đổi từ một cực này sang cực
kia - từ cách suy nghĩ tôn giáo sang thế tục. Sự
biến đổi như vậy
có thể được định nghĩa vừa là sự tăng trưởng (tri thức khoa học) hoặc vừa
là sự suy giảm (tôn giáo). Loại biến
đổi một hướng đơn giản nhất là biến đổi tuyến tính, xảy ra khi mức độ biến đổi xã hội không đổi theo thời gian
(Geertz, Clifford 1963). Một loại biến đổi xã hội khác là tăng trưởng theo cấp số nhân, trong
đó tỷ lệ phần trăm tăng trưởng liên tục theo thời gian và sự biến đổi tăng nhanh tương ứng. Tăng trưởng dân số và tăng
trưởng sản xuất là theo mô thức này trong những khung thời gian nhất định. Một mô thức tăng trưởng dài hạn cũng có thể phù hợp với một đường
cong S ba giai đoạn. Trong giai đoạn đầu,là sự biến đổi chậm, hầu như không thể cảm nhận. Tiếp theo sự biến đổi tăng tốc. Trong giai đoạn thứ ba, tốc
độ biến đổi sẽ giảm dần cho đến khi đạt đến một giới
hạn trên được giả định. Mô hình biến đổi nhân khẩu học ở các nước công nghiệp hóa thể hiện mô
thức này. Trong giai đoạn đầu (tiền hiện
đại hoặc tiền công nghiệp) cả tỷ lệ sinh và tỷ lệ
chết đều cao, và do đó dân số tăng rất chậm; sau đó tỷ lệ chết giảm, và dân số phát triển nhanh hơn; ở giai đoạn thứ ba cả tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết đều trở nên thấp, và sự tăng trưởng dân số tiếp cận bằng không. Loại
mô hình tương tự mang
tính giả thuyết nhiều hơn, cũng đã được đưa ra cho các mức biến đổi về công nghệ và khoa học
(Young, P. 1993; Modis, T. 2007).
Mô thức biến đổi kết hợp: Những biến đổi theo chu kỳ và một chiều có thể được quan sát đồng
thời. Điều này xảy ra một phần bởi vì biến đổi ngắn hạn có xu hướng xoay vòng trong khi
biến đổi dài hạn có xu hướng đi theo một hướng.
Ví dụ, tỷ lệ sản xuất của các nước công nghiệp hoá thể hiện mô hình chu kỳ kinh
doanh ngắn hạn xảy ra trong quá trình phát triển kinh tế dài hạn. Những mô hình
này không thể áp dụng một cách đơn giản và dễ dàng đối với thực tế xã hội. Lý
tưởng nhất thì chúng cũng chỉ là các xấp xỉ của thực tế xã hội. Không
phải lúc nào cũng có thể so sánh mô
hình với thực tế, bởi vì không phải lúc nào cũng có sẵn các
nguồn dữ liệu đáng tin cậy. Hơn nữa, và quan trọng
hơn, nhiều quá trình xã hội không cho phép đo lường chính xác bằng định lượng. Ví dụ, các quy trình như quan liêu hoặc phi
tôn giáo hóa trong xã hội, có thể được
định nghĩa thông qua những thay đổi theo một hướng nào đó, nhưng rất khó đạt
được thỏa thuận về các kích cỡ cần đo (Frisbie P. 1975;
Tschannen O. 1991; Gorski Ph.
2008; Hout M. and C. Fischer 2014).
Cần phải xem liệu biến đổi xã hội dài hạn theo một hướng nào đó có được duy trì không. Quá trình chuyển đổi
của xã hội thời trung cổ thành các quốc gia phương Tây của thế kỷ 20 có thể
được hình thành dựa trên một số biến đổi một hướng, tương liên với nhau trong một thời gian dài. Một số biến đổi quan trọng nhất trong số đó bao gồm quá trình thương mại hóa, tăng cường phân công lao động, tăng trưởng sản xuất, hình thành các
quốc gia, quá trình quan liêu
hóa, tăng trưởng công nghệ và khoa học, quá
trình thế tục hóa, đô thị hóa, sự phát
triển của tri thức, tăng tính di động về địa lý và
xã hội, tăng trưởng của các tổ chức
xã hội. Nhiều biến đổi tương tự cũng đã diễn ra ở các xã hội phi phương Tây. Rất
nhiều biến đổi không bắt nguồn từ phương Tây, nhưng một số biến đổi quan trọng thuộc về phương Tây, như Cách mạng Công nghiệp và sự trỗi dậy của chủ nghĩa
tư bản. Sau đó các biến đổi này đã có tác động mạnh mẽ đến xã hội không phương
Tây. Ngoài ra, các xã hội bên ngoài Tây Âu đã bị thu hút vào một bộ phận lao động toàn
cầu, đến với các quốc gia phương Tây có
ưu thế về cả kinh tế, chính trị và xã hội.
1.7. Đi tìm các nguyên nhân biến đổi xã hội
Một cách để giải thích biến đổi xã hội là chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa hai hoặc
nhiều quá trình. Điều này có thể mang hình thức quyết định luận hay quy giản luận, cả hai đều có xu hướng giải thích biến đổi xã hội bằng cách quy giản vào một quá trình nhân quả độc
lập và hoàn toàn xác định. Một giả định thận
trọng hơn cho rằng một quá
trình có ưu tiên nhân quả tương đối, không hàm ý rằng quá trình này là hoàn toàn độc
lập và hoàn toàn xác định. Sau đây là một số quá trình được cho là đóng góp vào các biến đổi xã hội.
Môi trường tự nhiên:
Những biến đổi trong môi trường tự nhiên có thể là kết
quả của các biến đổi khí hậu, thiên tai, hoặc sự lây lan của bệnh tật. Ví dụ,
cả sự suy thoái của điều kiện khí
hậu và đại dịch Cái chết Đen (ước tính làm chết từ
75-200 triệu người châu Âu trong thời gian 1340-1353 do dịch hạch) đều góp phần vào cuộc khủng hoảng
của chế độ phong kiến trong thế kỷ 14 ở châu Âu. Những
thay đổi trong môi trường tự nhiên vừa có thể độc lập với các hoạt động xã hội của con người lại
vừa có thể gây ra đại dịch đó. Nạn phá rừng, xói mòn đất đai, và ô nhiễm không khí thuộc về trường
hợp sau, và đến lượt mình, chúng có thể gây ra những hậu quả xã hội sâu rộng
(Alchon A. S. 2003, 2016; Sussman G.D 2011). Trong lịch sử hàng thiên niên kỷ trải nghiệm và quan sát các biến đổi môi trường tự nhiên dẫn đến
biến đổi xã hội, đã có bốn cách diễn
giải lý thuyết cơ bản về nguyên
nhân: i) Hành vi định mệnh, hành động của Thượng đế/ Trời/ Thiên Chúa tùy theo quan niệm của từng tộc
người, từng tôn giáo khác nhau; ii) Hành vi của tự nhiên; iii) Các tác động chung của cả tự nhiên và xã hội; iv) Các tác động của hệ thống công trình xã hội. Hành động của Thượng đế/ Trời/ Thiên Chúa:
Trong hàng thiên niên kỷ, thiên tai/
thảm họa được cho là phát sinh từ các lực lượng không
có giới hạn và không kiểm soát được, và được coi là các hành động của Thượng đế/ Trời/ Thiên Chúa, vượt quá sự hiểu biết của con người, gây ra những thất bại của
xã hội. Hành vi của thiên nhiên: Theo thời gian, kiến thức khoa học gia tăng đã khiến
nhiều người thay thế nguyên nhân siêu nhiên bằng những nguyên nhân tự nhiên. Do đó các biến đổi xã hội do tự nhiên gây ra đã được quy cho “một cuộc tấn
công từ bên ngoài vào các hệ thống xã hội” gây ra đổ vỡ khi phải
đối mặt với một cuộc tấn công như vậy từ bên
ngoài” (Quarantelli, 1998, p. 266). Kết quả làm nảy sinh quan niệm về con người chống lại tự nhiên đã trở nên đặc
biệt mạnh mẽ. Các
tương tác giữa
Tự nhiên và Xã
hội: Tuy nhiên, sau đó, người ta lại
cho rằng những mối nguy hiểm phát sinh từ sự
tương tác giữa các hệ thống sự
kiện vật lý và các hệ thống do con người tạo ra. Do đó, biến đổi xảy ra là do mối tương
tác của cả hai hệ thống này. Theo Carr (1932, p. 211), xã hội loài người thích ứng với các điều kiện môi
trường hiện tại (ví dụ: nhiệt độ, tốc độ gió, lượng mưa, hoạt động địa chấn)
tại một vị trí nhất định. Các công trình xã hội: Gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng biến
đổi gây hại một cách hệ thống đối
với một số loại người, cũng như các loại vị
trí địa lý và các hệ thống sử dụng con người. Đối
với các hiệu ứng tương tác, thì các mối quan tâm
về bộc lộ nguy cơ ở
những vị trí cụ thể và tính dễ tổn thương vật lý của các cấu trúc cụ thể, lý thuyết công
trình xã hội chú trọng đến những
biến đổi xã hội với các nhóm dễ bị tổn thương. Các phân đoạn dân cư dễ bị tổn thương về
phương diện xã hội xuất hiện bởi vì các quá trình tâm lý,
nhân khẩu học, kinh tế và chính trị của chúng ta thường có xu hướng tạo ra các
phân đoạn đó. Mối quan tâm đặc biệt đối
với các nhà quản lý biến
đổi xã hội là cần phải có nhiều cách thức có thể giảm nguy cơ dễ bị tổn thương, trong
đó có hỗ trợ xã hội, tăng cường quyền lực chính trị cho những người nghèo nhất về phương diện kinh tế, chính trị và xã hội (Lindell,
Michael K.; Carla S. Prater; Ronald W. Perry; William C. Nicholson, 2006).
Các quá trình nhân khẩu học: Tăng trưởng dân số và mật độ dân số gia tăng thể
hiện những hình thái nhân khẩu học của biến đổi xã hội. Sự tăng trưởng dân số có thể dẫn đến sự mở
rộng về mặt địa lý của một xã hội, dẫn đến xung đột quân sự và sự hòa trộn giữa các nền văn hoá.
Tăng mật độ dân số có thể kích thích các đổi mới công nghệ, từ đó có thể làm
tăng các quá trình xã hội như phân công lao động, khác biệt xã hội, thương mại hoá,
và đô thị hóa. Loại quá trình này xảy ra ở Tây Âu từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII và ở Anh vào thế kỷ XVIII, mà ở đó tăng
trưởng dân số đã thúc đẩy cuộc Cách mạng Công nghiệp. Mặt khác, tăng dân số có thể góp phần làm trì
trệ kinh tế và gia tăng nghèo đói, như đã được chứng kiến ở một số nước thuộc
Thế giới Thứ ba ngày nay (Barlow, Robin 1994; Ahlburg, Dennis A. 1996).
Các đổi mới công nghệ: Một số lý
thuyết tiến hóa xã hội xác định những đổi mới công nghệ là những yếu tố quyết
định quan trọng nhất đối với biến đổi xã hội. Những đột phá về công nghệ như luyện kim, sự
ra đời của cày trong nông nghiệp, sự phát minh ra động cơ hơi nước và sự phát
triển của máy tính đã để lại những hệ quả xã hội lâu dài (Samapti, Marakkath, Nadiya (Eds.),
2015).
Các quá trình kinh tế: Các
biến đổi công nghệ thường được xem xét kết hợp
với các quá trình kinh tế, bao gồm việc hình thành và mở rộng thị trường, thay
đổi các quan hệ về tài sản, chẳng hạn như sự thay đổi từ mối quan hệ giữa chúa
đất và tá điền thời phong kiến thành quan hệ giữa người chủ sở hữu và người
thuê đất thông qua hợp đồng, và những thay đổi trong tổ chức lao động như thay đổi từ các thợ thủ công độc lập với
quy mô gia đình thành các nhà máy
tập trung đong đảo đội ngũ công nhân làm thuê. Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Marx và Engels
xây dựng, là một trong những lý thuyết nổi bật hơn
dành ưu tiên cho các quá trình kinh tế, và bên cạnh đó còn có những quan
điểm duy vật khác, thậm chí chống lại chủ nghĩa Marxism, chẳng hạn học giả duy
vật Clark Kerr và các đồng sự của ông,
bằng cách bỏ qua học thuyết xung đột và đấu tranh giai cấp của Marx, và khẳng định rằng công
nghiệp hóa ở mọi nơi đều có những hệ quả tương tự, cho dù các biến đổi xã hội trong quan hệ tài sản được gọi là tư bản hay cộng sản
(Kerr C., J. T. Dunlop, F. H. Harbison
and C. A. Myers, 1962).
Các hệ tư tưởng: Các lý thuyết khác đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ
tư tưởng và coi đó là nguyên nhân của biến đổi xã hội. Quy luật phát triển ba giai đoạn của A. Comte là một lý thuyết như vậy. Auguste Comte quan tâm đặc biệt đến bộ phận mà ông gọi là động
học xã hội (social dynamics). Đó là lĩnh vực nghiên cứu các quy luật biến
đổi xã hội trong các hệ thống xã hội theo thời gian. Comte đưa ra quy luật ba
giai đoạn để giải thích sự phát triển của các hệ thống tư tưởng và hệ thống cơ
cấu xã hội tương ứng. Lịch sử loài người phát triển qua ba giai đoạn: i) Thần học; ii) Siêu hình; và
iii) Thực chứng. Theo quy luật ba giai đoạn, mỗi giai đoạn trước
là điều kiện phát triển của giai đoạn sau. Việc biến đổi từ giai đoạn này sang
giai đoạn khác không trôi chảy, nhẹ nhàng, mà thường trải qua thời kỳ bất ổn
định, mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới. Comte cho rằng, hệ thống văn hóa bao
gồm đạo đức và tinh thần quy định sự phát triển của hệ thống xã hội, cơ cấu xã
hội. Dựa vào quy luật ba giai đoạn, Comte cho rằng việc “xã hội học” ra đời ở
giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa là một tất yếu lịch sử; và xã hội học là
khoa học đứng trên tất cả các khoa học khác. Xã hội học ra đời ở giai đoạn cuối
của quá trình tiến hóa - giai đoạn thực chứng và đó là khoa học phức tạp nhất,
phải dựa trên nền tảng khoa học khác. Vì ra đời muộn nên xã hội học ngay lập
tức đã phải là một khoa học thực chứng và chiếm vị trí cao nhất trong hệ thống
thứ bậc các khoa học (Comte, Auguste (1896, 1974). Đối với M. Weber, những ý tưởng tôn giáo lại có những đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế và
đặc biệt là biến đổi xã hội. Các
nghiên cứu của Weber về xã hội học tôn giáo khởi đầu với tác phẩm Nền đạo đức Tin lành và Tinh thần của Chủ
nghĩa tư bản, rồi tiếp nối với những biên khảo phân tích về Tôn giáo Trung
Hoa: Khổng giáo và Lão giáo, Tôn giáo Ấn Độ: Xã hội học Ấn giáo và Phật giáo,
và Do Thái giáo cổ đại. Các nghiên cứu về các tôn giáo khác bị gián đoạn khi
ông đột ngột từ trần năm 1920. Ba luận đề chính của Weber gồm có: Ảnh hưởng của
ý thức tôn giáo đến các hoạt động kinh tế, mối quan hệ giữa tôn giáo và phân
tầng xã hội, và những đặc điểm của văn minh phương Tây. Weber tin rằng các giá
trị của tôn giáo đã có ảnh hưởng lớn trên những cải cách xã hội, và phát triển
hệ thống kinh tế tại Âu châu cũng như ở Hoa Kỳ (Weber, Max 2008).
Các phong trào xã hội: Những biến đổi xã
hội trong các tư tưởng tập thể không chỉ đơn thuần là một quá trình tri
thức; nó thường liên quan đến sự hình thành các
phong trào xã hội mới. Bản thân nó có thể được coi là một nguyên nhân tiềm tàng
của biến thay đổi xã hội. Weber đã chú ý đến yếu tố
này bằng khái niệm “lãnh đạo có ma lực lôi cuốn” (charisma) trong gây dựng phong
trào làm biến đổi xã hội. Vị lãnh đạo
có sức thu hút, nhờ đức tính cá nhân phi thường của ông, có thể tạo ra một nhóm
tín đồ sẵn sàng phá bỏ các quy tắc đã được thiết lập. Ví dụ như Chúa Giêsu,
Napoleon, và Hitler. Để gây dựng phong trào xã hội, Weber phân biệt ba hình mẫu lãnh
đạo chính trị, thống trị và thẩm quyền: gây ảnh hưởng thống trị bởi sự thu hút
cá nhân kể cả trong gia đình và tôn giáo, có ảnh hưởng thống trị bởi truyền
thống, chẳng hạn hình tượng các bậc tổ phụ trong chế độ chuyên chế, và ảnh
hưởng thống trị bởi quy định luật pháp (nhà nước và luật pháp đương đại, bộ máy
hành chính). Ông nhận thấy trong hình thái cai trị bởi truyền thống, một sự đề
kháng đủ mạnh có thể trở thành một phong trào cách mạng theo truyền thống, đủ
làm biến đổi xã hội một cách toàn diện (Mommsen, Wolfgang J. 1992).
Các quá trình chính trị: Những biến đổi trong việc điều chỉnh bạo lực
chính trị, trong việc tổ chức nhà nước, và trong quan
hệ quốc tế cũng có thể góp phần to lớn vào quá trình biến đổi xã hội. Ví dụ, nhà xã hội học người Đức Norbert Elias
(1994) giải thích sự
hình thành các tiểu bang ở Tây Âu như một quá trình tương đối tự trị dẫn tới
việc gia tăng kiểm soát bạo lực và cuối cùng là tăng các tiêu chuẩn tự chủ. Theo các lý thuyết khác về quá
trình chính trị, đặc biệt là những lý thuyết được đề xuất bởi nhà xã hội học lịch sử
Mỹ Charles Tilly, thì hoạt động của bộ máy nhà nước và bản chất của
các mối quan hệ giữa các tiểu bang có tầm quan trọng quyết định trong sự bùng
phát những cuộc cách
mạng từ các quá trình chính trị: đó là khi nhà nước
không thể hoàn thành các chức năng cơ bản của
nó trong việc duy trì luật và trật tự và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thì các quá trình chính trị của những tổ
chức chính trị khác nhau sẽ có cơ hội
thành công (Tilly, Charles 1984). Đối với các nhà xã hội học nghiên cứu biến
đổi xã hội thì mỗi quá trình đó đều có thể đóng góp cho các
quá trình khác; không quá trình nào là yếu tố duy nhất quyết định sự thay đổi xã hội. Hơn
nữa, các quá trình xã hội thường có mối
quan hệ xoắn xuýt với nhau đến mức khó có
thể xem xét chúng một cách riêng biệt. Chẳng
hạn, không có biên giới cố định giữa các quá trình kinh tế và chính trị, cũng không có ranh giới cố
định giữa các quá trình kinh tế và các
quá trình công nghệ. Thay đổi công nghệ có thể tự nó
được coi là một loại hình cụ thể của sự thay đổi về tổ chức hay khái niệm. Các
mối quan hệ nhân quả giữa các quá trình xã hội có thể phân biệt là vấn đề về
mức độ và thay đổi theo thời gian mà thôi (Wilterdink Nico, William
Form 1998).
1.8. Các
cơ chế biến đổi xã hội
Các cách diễn giải nguyên nhân biến đổi xã hội có một phạm vi giới hạn, đặc biệt khi chủ đề nghiên cứu liên quan đến các
điều kiện ban đầu hoặc các quá trình cơ bản. Vì vậy các nhà xã hội học thuộc
thế hệ gần đây đã đưa ra một cách diễn
giải mang tính lý thuyết tổng quát hơn
về biến đổi xã hội
là xây dựng một mô hình cơ chế lặp lại của sự biến đổi xã hội (Wilterdink Nico, William Form
1998). Các cơ chế như vậy, được kết hợp trong các
mô hình lý thuyết khác nhau, bao gồm những điều sau. Cơ chế thay đổi một chiều:
tích lũy, lựa chọn và phân biệt. Một số lý thuyết tiến hóa nhấn mạnh thực chất tích lũy cơ bản của tri thức con người. Theo lý thuyết này, việc mở rộng tri thức và năng lực tập thể vượt quá giới hạn nhất định chỉ có thể được thực
hiện theo chuyên môn hóa và sự phân biệt. Sự tăng trưởng tri thức kỹ thuật kích thích tích tụ vốn, dẫn đến tăng sản
lượng. Tăng trưởng dân số cũng có thể được kết hợp vào mô hình tiến hóa tích lũy này: do sự tích tụ tri thức kỹ thuật tập thể và các phương tiện sản xuất mà
con người có thể tăng được các số lượng; sự tăng trưởng này dẫn đến các vấn đề mới, được giải quyết
bằng cách đổi mới thành công (Wilterdink Nico, William Form
1998).
Cơ chế biến đổi xã hội theo đường cong và biến đổi tuần hoàn: Các mô hình biến đổi một chiều cho rằng thay đổi theo một hướng nhất định
sẽ dẫn đến thay đổi hơn nữa theo cùng một hướng; mặt khác, các mô hình biến đổi theo đường cong hoặc chu kỳ, lại giả định rằng thay đổi theo một hướng nhất định tạo ra
các điều kiện cho sự thay đổi theo một hướng khác (có thể ngược lại). Cụ thể
hơn, người ta thường giả định rằng tăng trưởng là có giới hạn và trong việc tiếp cận các giới hạn này,
đường cong thay đổi chắc chắn sẽ bị uốn cong. Các điều kiện sinh thái,
chẳng hạn như khả năng sẵn có của tài nguyên thiên
nhiên, có thể giới hạn dân số, tăng trưởng kinh tế và tổ chức. Các thay đổi
theo chu kỳ ngắn hạn được giải thích bằng các cơ chế tương đương. Một số lý
thuyết chu kỳ kinh doanh, giả định rằng nền kinh tế là bão hòa định kỳ với hàng
hoá vốn; các khoản đầu tư trở nên ít cần thiết và không
có lãi, tỷ lệ đầu tư sẽ giảm, và xu hướng giảm này dẫn đến suy thoái. Tuy
nhiên, sau một khoảng thời gian, những hàng hoá cần thiết sẽ phải được thay
thế; đầu tư lại được đẩy lên và một giai đoạn mở rộng kinh tế
mới lại bắt đầu (Eaton, Jonathan and Samuel
Kortum (2001).
Xung đột, cạnh tranh và hợp tác: Mâu thuẫn nhóm thường được xem như là một cơ chế cơ bản
của sự thay đổi xã hội, đặc biệt là những biến đổi xã hội cấp tiến và bất ngờ
được xác định là những cuộc cách mạng. Những người theo chủ nghĩa Mác nói riêng
có khuynh hướng miêu tả cuộc sống xã hội trong xã hội tư bản như là một cuộc
đấu tranh giữa một giai cấp cầm quyền, muốn duy trì hệ thống, và một tầng lớp
thống trị, cố gắng thay đổi triệt để. Thay đổi xã hội là kết quả của cuộc đấu
tranh đó. Những ý tưởng này là những gì cơ bản mà nhà xã hội học Ralf
Dahrendorf đã gọi là một mô hình xung đột của xã hội
(Dahrendorf, Ralf 1959). Vậy
là khái niệm xung đột trở
nên liên quan hơn đến việc giải thích về biến đổi xã hội nếu nó được mở rộng để bao gồm cả
việc cạnh tranh giữa các nhóm đối thủ. Về
nhiều phương diện, các quốc gia,
các công ty, các đại học, các hiệp hội…vv, đều là những nhóm có sự cạnh tranh lẫn nhau. Cạnh tranh kích thích việc tìm
tòi và phổ biến các đổi mới, đặc biệt là khi
chúng có tiềm năng tăng sức mạnh. Do đó, các nhà lãnh đạo các quốc gia không
phải phương Tây cảm thấy cần thiết phải chấp nhận khoa học và công nghệ phương
Tây, mặc dù hệ tư tưởng của họ có thể là chống phương Tây, bởi vì chỉ bằng
những phương tiện này họ mới có thể duy trì hoặc tăng cường quyền tự trị
và quyền lực quốc gia. Ngoài ra, cạnh tranh còn có thể dẫn đến tăng trưởng về quy mô và tính phức tạp của các thực thể liên quan. Ví dụ điển hình của
quá trình này, như đề xuất đầu tiên của Adam Smith, là khuynh hướng của chủ
nghĩa tư bản đối với việc thông đồng và thành lập các
độc quyền khi các công ty nhỏ bị
đẩy khỏi thị trường cạnh tranh. Bên
cạnh đó, Norbert Elias (1994) cho
rằng các quốc gia Tây Âu được sinh ra từ những
cuộc đấu tranh cạnh tranh giữa các lãnh chúa phong kiến. Cạnh tranh cũng thống
trị các lý thuyết về chủ nghĩa cá nhân, trong đó biến đổi xã hội được nhìn nhận như là kết quả của các
cá nhân theo đuổi lợi ích tự
thân của họ. Lý thuyết trò chơi và các công
cụ toán học khác đã cho thấy rằng các cá nhân
hành động vì lợi ích riêng của họ, trong những điều kiện nhất định,
sẽ hợp tác với nhau và do đó mở rộng được các mạng xã hội hiện có.
Căng thẳng và thích ứng: Theo chức năng luận cấu trúc thì biến đổi xã hội được coi là một phản ứng thích ứng đối với
tình trạng căng thẳng nào đó trong hệ thống xã hội. Khi một phần của một hệ thống xã
hội hội nhập thay đổi, thì sẽ tạo ra tình trạng căng thẳng giữa các bộ phận của hệ thống, và sẽ được giải quyết bằng sự
thay đổi thích ứng của các bộ phận khác. Điển hình là cái mà nhà xã hội học người Mỹ Ogburn đã gọi là “trễ” về văn hoá (Ogburn,
William F. 1966). Thuật ngữ “trễ” về văn hoá đề cập đến quan niệm cho rằng văn hoá cần có thời gian để bắt kịp với những đổi
mới công nghệ, và các vấn đề biến đổi xã hội do sự trễ này. Sau đó, “trễ” văn hoá không chỉ áp dụng cho ý tưởng này mà còn giúp
xác định và giải thích các biến đổi xã hội để dự đoán các vấn đề trong tương lai. Theo James W. Woodward (1934), khi các điều kiện vật chất thay đổi, những biến đổi xảy ra trong văn hoá là mang tính thích ứng, nhưng không đồng bộ hóa chính xác với các
biến đổi trong văn hoá vật chất, và
độ trễ này gây ra tụt hậu về văn hoá. Sự tụt hậu về văn hoá được coi là vấn
đề đạo đức quan trọng bởi vì nó kéo theo tình trạng thất bại trong việc phát triển đồng thuận xã hội rộng rãi
đối với việc ứng dụng
thích hợp các công nghệ hiện đại có thể dẫn đến sự đổ vỡ cố kết xã hội và gia tăng xung đột xã hội (Ogburn, William
F. 1966).
Truyền bá đổi mới: Một số biến đổi xã hội là kết quả của những đổi mới đã được chấp
nhận trong một xã hội. Chúng có thể bao gồm các
phát minh công nghệ, kiến thức khoa học mới, niềm tin mới, hoặc một phong
cách mới trong lĩnh vực giải trí. Truyền
bá không phải là tự động mà có tính chọn lọc; một sự đổi mới chỉ được chấp nhận bởi những người có động cơ thực
hiện đổi mới. Hơn nữa, đổi mới phải phù hợp với các khía
cạnh quan trọng của văn hoá. Một lý do để các nhóm xã hội lớn chấp nhận các sáng kiến đổi mới là hình mẫu được xác lập bởi các nhóm xã hội có vị thế cao hơn, hành động với tư cách là nhóm tham chiếu cho những
người khác. Nhiều đổi mới có xu hướng đi theo
một mô thức truyền bá từ các nhóm có vị thế cao hơn đến các nhóm có vị thế thấp hơn. Cụ thể hơn, hầu hết những người áp dụng sớm các sáng
kiến đổi mới trong các xã
hội phương Tây hiện đại, theo một số nghiên cứu, là
thuộc giới trẻ, sống ở đô thị, giàu có và có trình độ học vấn cao, với vị
thế nghề nghiệp cao. Thường thì họ có động lực
bởi mong muốn phân biệt mình khỏi đám đông. Tuy nhiên, sau khi truyền
bá diễn ra, đổi mới không còn là biểu hiện của
sự phân biệt nữa. Điều này thúc đẩy chính
nhóm đó tiếp tục tìm kiếm một cái gì đó mới khác nữa. Cơ chế này có thể giải thích sự biến
đổi liên tục của mốt, thời trang, và các phong trào xã
hội.
1.9. Lập kế hoạch và thể chế hoá biến đổi xã hội
Biến đổi xã hội có thể là kết quả của kế hoạch xã hội quy mô
lớn hướng đến các mục tiêu
xác định. Khả năng lập kế hoạch của các quan chức
chính phủ và các tổ chức lớn khác đã gia tăng trong các xã hội hiện đại. Tuy
nhiên, hầu hết kế hoạch phát
triển xã hội thường ngắn hạn; các mục tiêu của kế hoạch thường không đạt được, và thậm
chí nếu kế hoạch thành công theo các mục tiêu đã đề ra, nó thường để
lại những hậu quả không lường trước được. Phạm vi
càng rộng hơn và khoảng thời gian của
kế hoạch càng dài thì
càng khó đạt được các mục tiêu và khó tránh được những hậu quả không mong muốn hoặc
không lường trước được.
Hầu hết các phát triển xã hội ở quy mô lớn và
dài hạn trong bất kỳ xã hội
nào, phần lớn cũng vẫn còn ở tình trạng không có kế hoạch, tuy nhiên những thay đổi quy mô lớn dựa
trên cơ sở luật pháp để thành lập các cơ quan chính phủ lớn như bảo hiểm thất
nghiệp, trợ cấp tuổi già hoặc chăm sóc y tế, đều tạo ra những thay đổi thể chế quan trọng trong các xã hội đã công nghiệp hóa. Việc lập kế hoạch bao
hàm việc thể chế hóa quá
trình biến đổi, nhưng việc thể chế hóa lại không bao hàm việc xây dựng kế hoạch. Nhiều
biến đổi xã hội không có kế hoạch trong các
xã hội hiện đại được thể chế hoá; chúng có nguồn gốc từ các tổ chức thường xuyên định hướng
đổi mới, chẳng hạn như các trường đại học và các phòng nghiên cứu của các chính
phủ và các công ty tư nhân, nhưng tác động xã hội của các biến đổi này lại không được kiểm soát. Trong lĩnh vực khoa học
và công nghệ, quá trình biến đổi đặc biệt
được thể chế hoá, tạo ra biến đổi xã hội, một phần là có chủ đích và một phần thì không hề có chủ đích. Nguyên nhân của các biến đổi xã hội rất đa dạng, và các quá trình biến đổi có thể được xác định là xu thế ngắn hạn hoặc sự phát
triển dài hạn. Biến đổi có thể mang tính chu kỳ hoặc một chiều. Các cơ chế biến đổi xã hội có thể khác nhau và tương liên với nhau. Một số cơ chế có thể được kết hợp trong một mô hình
giải thích về biến đổi xã hội. Ví dụ, đổi mới bằng kinh doanh
có thể được kích thích bởi cạnh tranh và theo quy định của chính phủ. Ở mức độ mà các quá trình biến đổi là thường xuyên và tương liên với nhau, thì bản thân biến đổi xã hội là có cấu trúc. Kể từ khoảng năm 1965 đã có một sự thay đổi từ “cấu trúc” sang “biến đổi” trong lý thuyết xã hội. Biến đổi ở các cấp khác nhau – các động thái xã hội trong đời sống hàng ngày và các quá trình chuyển đổi ngắn hạn và phát triển lâu dài trong xã hội,
nói chung đã trở thành tâm điểm chú ý nhiều trong
nghiên cứu xã hội (Wilterdink Nico, William Form 1998).
1.9.1. Quá trình Tích hợp văn hóa (Acculturation):
Khái niệm Tích hợp văn hóa, vốn phổ biến trong nhân học Mỹ trong thế kỷ 19, đã
được J. Powell, một cán bộ của Văn phòng Dân tộc học Hoa Kỳ
đề xuất, trong công trình Nhập môn Nghiên cứu Ngôn ngữ Anh điêng (1880). Franz Boas, một nhà nhân chủng học văn hoá Mỹ
gốc Đức, đã sử dụng nó vào năm 1896. Mặt khác, người
Anh gọi đó là quá trình tiếp xúc văn hóa. Rõ ràng là Tích hợp văn hóa, có nguồn gốc từ lĩnh vực nhân học, điều này đã ảnh hưởng
đến sự phát triển và tinh lọc của nó một cách đáng kể. Tích hợp văn hóa có thể được
định nghĩa là sự biến đổi trong văn hoá của một người hoặc một
nhóm thông qua quá trình tương tác
trực tiếp với các nền văn hoá khác dẫn đến việc thụ
đắc hoặc trao đổi các đặc
điểm văn hóa. Ở cấp độ cá nhân, quá trình này
giống như quá trình học hỏi xã hội chủ yếu dựa vào ngôn ngữ. Ở cấp xã hội, đó là quá
trình chuyển đổi và truyền bá các thành tố văn hoá. Bằng cách này, các đặc điểm văn hoá cũ có thể
biến mất hoặc thay đổi, trong khi các tập tục mới và các yếu tố văn hoá khác có thể hiện
diện. Tóm lại, tiếp biến văn hoá là một hình thức biến đổi xã hội về phương diện văn hoá.
1.9.2. Quá trình Thích ứng (Accommodation): Ngay cả loại xung đột xã hội có tính huỷ hoại và bạo lực nhất
cũng vẫn thường tiếp theo bởi quá trình thích ứng. Đó chính là quá trình điều chỉnh tương
tác đối với tình trạng xung đột giữa các nhóm, trong đó, vì những lợi ích đắp đổi khác nhau, những người có liên quan gắng duy trì các bản sắc riêng của mình và luôn tránh thù hằn công khai. Do đó, quá trình thích nghi là sự hỗn hợp giữa các định kiến, khuôn mẫu và tương tác thân thiện tạo điều
kiện thích nghi với môi trường xã hội. Quá trình này dựa trên cơ
sở học hỏi xã hội, chứ không dựa trên cơ sở di truyền sinh học. Quá trình này có thể là có ý thức hoặc vô thức, và nó có thể mang tính điều chỉnh cá nhân hoặc
điều chỉnh nhóm. Những người có liên quan sửa đổi thái độ, thói quen, hành vi, phong tục, và thậm
chí là toàn bộ các thể
chế xã hội. Tất nhiên, các yếu tố dẫn đến xung
đột không còn được duy trì. Do đó, mâu thuẫn bị loại bỏ, dẫn đến thiết lập trạng thái xã
hội mới dựa trên cơ sở thoả hiệp,
khoan dung, chuyển đổi, phụ thuộc, và quan hệ tương hỗ. Thích ứng XH đem lại rất nhiều lợi ích về mọi lĩnh vực: chính trị, kinh
tế, xã hội, VH, an ninh, …v.v.
1.9.3. Quá trình Đồng hóa (Assimilation): Đồng hóa là sự hấp thu xã hội của một dân tộc, chủng tộc
hoặc văn hóa, hoặc của một người nhập cư, vào một xã hội được chấp nhận, sản xuất ra một văn hóa mới, phổ biến, và khá đồng nhất.
5 Trong quê hương mới của họ, các thành viên
của một nhóm thiểu số
bị đồng hóa sống rải rác đây đó và tham gia vào cuộc sống xã hội của nhóm
đa số, làm giảm bớt
đi sắc thái (visibility) và sự khác
biệt của họ. Bằng cách này, vẫn còn những khác biệt không phải là về phương diện văn hoá, khi một quốc tịch này biến đổi thành một quốc tịch khác. Thông thường, nhóm yếu thế
hơn hoặc nhóm thiểu số bị nhóm mạnh hơn hoặc
đa số hấp thụ. Hơn nữa, sự đồng hoá thường xảy ra nhất thông qua di dân hoặc
chinh phục. Hôn nhân dị tộc có xu hướng
đẩy nhanh quá trình này, vì nó dẫn đến việc chấp nhận các giá trị, thái độ, ký ức, tình cảm và tập
quán mới. Đối với yếu tố thời gian, sự đồng hoá,
có thể là quá trình một chiều, hoặc là
một quá trình tương hỗ, lại nhanh chóng, như trong trường hợp các dân
tộc thiểu số Châu Âu ở Hoa Kỳ, hoặc chậm, như trường hợp người Mỹ da đen.
1.9.4. Quá trình Hợp tác (Cooperation): Quá trình hợp tác liên quan đến hai hoặc nhiều cá nhân
hoặc các nhóm cố kết hợp các hoạt động của họ để đạt được lợi ích chung hoặc các mục tiêu chung mà những người tham gia chia sẻ.
Các hoạt động kết hợp thực sự có tổ chức và
có thể giống nhau hoặc không
giống nhau. Loại thứ nhất là điển hình của các xã hội truyền thống và loại sau là của xã hội hiện đại. Hợp tác, là điều cần thiết cho sự
sống còn của mọi xã hội, có thể là một mục đích tự thân hoặc một phương tiện để đạt được một mục đích nào đó. Ngay cả thế giới hữu cơ cũng được đặc trưng bởi mức độ hợp tác nào đó. Needles cho
rằng, các nhóm hợp tác thường phải từ bỏ một phần
của sự tự chủ của họ. Là một chuẩn mực về đạo đức và xã hội, hợp tác đã thực sự
tạo ra tất cả các tôn giáo và hệ thống triết học quan trọng của thế giới.
1.9.5. Quá trình Cạnh tranh (Competition) là sự đấu tranh của các cá nhân hoặc nhóm đối với việc sở
hữu và sử dụng hàng hoá bị hạn chế hoặc được cho là bị hạn chế. Cầu về hàng hoá thường lớn hơn cung. Quá trình cạnh tranh, đối nghịch với sự hợp
tác, là do bản chất hữu hạn của hành tinh chúng ta và thực tế là nguồn nhân lực
khan hiếm. Mục tiêu cụ thể của nó có thể là hàng hóa vật chất, địa vị xã hội,
quyền lực, vị trí, …v.v. Hơn nữa, cạnh tranh có thể là cá nhân, có ý thức, trực
tiếp hoặc vô tình, vô thức, và gián tiếp - ví dụ như một doanh
nhân có thể có ý thực hoặc vô
thức về sự thành công của mình đã gây ra sự thất
bại của một doanh nhân khác. Cũng cần lưu ý rằng cạnh tranh và mâu thuẫn khác
nhau theo bốn cách chính: Thứ nhất, cạnh tranh chủ yếu
hướng tới mục tiêu, chứ không phải đối thủ cạnh tranh, trong khi xung đột xảy
ra với đối thủ. Thứ hai, cạnh tranh diễn ra liên tục cho đến khi một trong những đối thủ cạnh tranh đạt
được mục tiêu mong muốn, trong khi xung đột thường bị gián đoạn. Thứ ba, cạnh
tranh dựa trên các quy tắc bao quát hơn nhiều so với xung đột. Và thứ tư, cạnh tranh không
bao giờ bao gồm sức mạnh hoặc bạo
lực, trong khi xung đột có thể làm như vậy. Trong lĩnh vực đời sống kinh tế,
cạnh tranh là đối nghịch của độc quyền, là sự kiểm soát về
một loại dịch vụ hoặc hàng hoá bởi duy nhất một người bán. Cạnh tranh có ý thức thường được gọi là sự ganh đua. Ví
dụ, sự ganh đua nảy sinh khi hai ngành công nghiệp tự động cạnh tranh vì cùng một nhóm khách hàng hoặc khi hai đảng chính trị theo đuổi cùng một
chức vụ.
1.9.6. Quá trình Xung đột (Conflict) ngược lại với hợp tác, là một hình thức tương tác xã hội liên quan đến
hai hoặc nhiều cá nhân hay nhóm người có ý thức nhằm cản trở mục đích của nhau hoặc
để đánh bại, làm bị thương hoặc thậm chí hủy diệt đối thủ. Như vậy, xung đột là một dạng cạnh tranh khốc liệt, nhưng không giống với
xung đột, cạnh tranh được hướng
dẫn bởi các quy tắc khá bao quát và không bao
gồm sức mạnh hoặc bạo
lực. Tuy nhiên ngay cả xung
đột cũng có thể không kèm
theo bạo lực, chẳng hạn như trong những trường hợp đình công và các cuộc tranh
luận nóng bỏng tại nghị viện. Hơn nữa, xung
đột có thể được định hướng tới các
đối tượng vô tri vô giác, nhưng trong
xã hội học quá trình này chỉ dành riêng cho con người. Tập
tính học, khoa học về hành vi xã hội của động vật, đã
nghiên cứu xung đột một cách sâu rộng. Một trong những nhà Tập tính học người Áo rất nổi tiếng là Konrad Lorenz, nhận giải Nobel năm 1973 và là tác giả của
cuốn Về sự gây hấn (On
Aggression) [9]. Theo tập tính học, bốn bản năng cơ bản ảnh hưởng đến hành vi của động vật là: đói, sinh sản, gây hấn và sợ hãi. Đối
với các loại xung đột, đó là hai: giữa
các thành viên của cùng loài và giữa các loài khác nhau. Các
chức năng của xung đột cùng loài, rất phổ
biến, bao gồm ba
chức năng: i) thiết lập sự cân bằng giữa dân số và môi trường, ii)
bảo vệ thành viên non trẻ, và iii) tái sinh sản bởi các thành viên mạnh nhất của
loài. Bên cạnh đó, xung
đột khác loài dựa trên ba nguyên tắc: i) sự thống trị, hoặc ưu thế của một thành viên đối
với các thành viên khác; ii) lãnh thổ, hoặc sự chiếm đoạt một vùng đất bởi một số thành viên; và iii) liên kết, hoặc các mối quan hệ hòa bình và
độc lập giữa các thành viên của loài.
_______________________________________
Còn nữa….
* Ghi chú: Phần tổng
quan cho Đề cương nghiên cứu của Đề tài Tác
động của biến đổi xã hội đến ổn định và phát triển vùng dân tộc thiểu số nước
ta hiện nay (Thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp quốc gia
giai đoạn 2016-2020: Những vấn đề cơ bản
và cấp bách về dân tộc thiểu số và chính sách dân tộc ở Việt Nam đến năm 2030”,
Mã số CTDT/16-20) của Viện Văn hóa Dân gian Ứng dụng, Hội Văn nghệ Dân gian
Việt Nam.
Tài liệu dẫn
Adams,
Robert (2008). Empowerment, participation and social work. New York:
Palgrave Macmillan.
Ahlburg, Dennis A. (1996). Population Growth and Poverty, In The Impact of Population Growth on Well-Being in Developing
Countries, ed. Dennis A. Ahlburg, Allen C. Kelley, and Karen Oppenheim
Mason (Berlin: Springer, 1996), 219-258.
Alchon, Austin Suzanne (2003). A pest in the land: new world epidemics in
a global perspective. University of New Mexico Press. p. 21.
Alchon, Austin Suzanne (2016). Historical Estimates of World Population.
Census.gov. Retrieved November 12, 2016.
Allen T, Thomas A (1992). Poverty and Development into the 21st
Century. Oxford: The Open University.
Al-Rodhan,
R.F. Nayef and Gérard Stoudmann. (2006). Definitions
of Globalization: A Comprehensive Overview and a Proposed Definition.
Program on the Geopolitical Implications of Globalization and Transnational
Security.
Althusser, Louis (2014). On
The Reproduction Of Capitalism: Ideology And Ideological State Apparatuses,
trans. and ed. G.M. Goshgarian (Verso, 2014).
Anderson, Benedict (1983). Imagined
Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism, rev. ed., London: Verso.
Bairoch, Paul (1995). Were Third World Raw Materials Central to
Western Industrialization?" in his Economics and World History (Chicago,
1995), 59-71;
Barlow, Robin (1994). Population Growth and Economic Growth: Some
More Correlations,” Population and
Development Review 20, no. 1 (1994): 153-165.
Barry,
B., & Robinson, R.J. (2002). Ethics
in conflict resolution: The ties that bind. In International Negotiation,
7: 137-142.
Bauman, Z. (1998). Globalization: The Human Consequences.
Columbia University Press.
Beck, Ulrich & Giddens,
Anthony & Lash Scott (1994). Reflexive Modernization. Politics,
Tradition and Aesthetics in the Modern Social Order. Cambridge: Polity
Press.
Bell, Daniel (1966). Work, Alienation and Social Control, in
Irving Howe (ed.), The Radical Papers. Garden City, NY: Doubleday and
Co., 1966; pp. 86-98.
Bell, Daniel (1973). The Coming
of Post-Industrial Society: A Venture in Social Forecasting. New York:
Basic Books.
Berger,
Peter L; Kellner, Hansfried (1965). Arnold Gehlen and the
Theory of Institutions, In Social Research, Camden, N. J.32.1 (Spring 1965): 110.
Berger, Peter L.; Brigitte Berger
and Hansfried Kellner (1974). The
Homeless Mind, Published by Penguin Books Ltd.
Bilance (1997). A world in balance – Bilance stands for
Social Development: Policy paper”. Oegstgeest, September 1997.
Birnbaum, Norman, and Gertrud
Lenzer, eds. (1969). Sociology and
Religion: A Book of Readings. Englewood Cliffs: Prentice-Hall, 1969.
Black, Max (1961). Social
theories of Talcott Parsons: a critical examination.
Topics Sociology, Sociologie. Publisher
Englewood Cliffs, N.J.,: Prentice-Hall
Bock, Philippe. K. (1969). Modern Cultural Anthropology – An
Introduction. Alfred A. Knopf, New York.
Bond, Niall (1991). Sociology
and ideology in Ferdinand Tönnies’ Gemeinschaft und Gesellschaft. Freiburg 1991
(Freiburg (Breisgau), Univ., Diss., 1991).
Bourdieu, P. (1983). Ökonomisches Kapital, kulturelles Kapital,
soziales Kapital. in Soziale Ungleichheiten (Soziale Welt, Sonderheft 2),
edited by Reinhard Kreckel. Goettingen: Otto Schartz & Co.. 1983. pp.
183-98.
Bourdieu, P. (1984a). Homo
Academicus, (French Edition) Les Éditions de Minuit, Paris, 1984
Bourdieu, P. (1984b). Distinction: A Social Critique of the
Judgment of Taste, trans. Richard Nice, 1984. Harvard University Press.
Bourdieu, P. (1989). The Corporatism of the Universal: The Role
of Intellectuals in the Modern World. Telos 81 (Fall 1989). New York
Bourdieu, Pierre and Jean-Claude
Passeron (1990). Reproduction in
Education, Society and Culture, Second Edition, SAGE Publications Ltd.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2015). Đề án tổng thể chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn
chiều dựa vào thu nhập sang đa chiều áp dụng trong giai đoạn 2016-2020. Hà
Nội.
Brandt R (1980). North- South: a Programme for Survival, the
report of the Independent Commission on International Development Issues.
London: Pan Books.
Buxton,
William J. and David Rehorick (2001). The
Place of Max Weber in the Post-Structure Writings of Talcott Parsons. In A.
Javier Trevino (ed.) Talcott Parsons Today: His Theory and Legacy in
Contemporary Sociology. Lanham: Rowman & Littlefield.
Carneiro, Robert L. and Perrin,
Robert G. (2005). Herbert Spencer's
'Principles of Sociology:' a Centennial Retrospective and Appraisal. In Annals
of Science 2002 59(3): 221–261.
Carr,
L. (1932). Disaster and the
sequence-pattern concept of social change. In American Journal of Sociology, 38, 209-215.
Chirot, Daniel (1977). Social Change in the Twentieth Century.
New York: Harcourt Brace Jovanovich.
Clausen Lars, Carsten Schlüter
(Hrsg.) (1991). Hundert Jahre „Gemeinschaft und Gesellschaft“. Ferdinand
Tönnies in der internationalen Diskussion. Leske + Budrich, Opladen 1991.
Coetzee KJ, Graaf J, Heindricks F,
Wood G (2007). Development: Theory, Policy
and Practice. Cape Town: Oxford University Press.
Cohen, R.B. (1988). State
Formation and Political Legitimacy. Edited by Ronald Cohen and Judith D.
Toland. Myron J. Aronoff.
Coleman James S. (1988). Social Capital in the Creation of Human
Capital, article in The American Journal of Sociology, Vol. 94, Supplement: Organizations and Institutions:
Sociological and Economic Approaches to the Analysis of Social Structure,
pp. S95–120 (1988).
Coleman James S. (1990). Equality and Achievement in Education. Publisher: Westview Press.
Coleman, J. S., Campbell, E. Q.,
Hobson, C. J., McPartland, J., Mood, A. M., Weinfeld, F. D., and York, R. L.
(1966). Equality
of Educational Opportunity. 2 volumes. Washington, D.C.: Office of
Education, U. S. Department of Health, Education, and Welfare, U. S. Government
Printing Office.
Collins, Patricia Hill (1998).
Toward a new vision: race, class and gender as categories of analysis and
connection. In
Social Class and Stratification: Classic Statements and Theoretical Debates. Boston: Rowman & Littlefield.
pp. 231–247.
Comte, Auguste (1896,1974). The Positive Philosophy of Auguste Comte,
Volumes I, II, and III. London: Bell. Translated by Martineau, Harriet.
Dahrendorf, Ralf (1959). Class and Class Conflict in Industrial
Society. Stanford: Stanford University Press.
Dahrendorf, Ralf (1968). Essays
in the Theory of Society. Stanford: Stanford University Press
Dahrendorf R. (1992). Der
moderne soziale Konflikt: Essay zur Politik der Freiheit. DVA, Stuttgart.
Day, R.J. F. 2000. Multiculturalism
and the History of Canadian Diversity. University of Toronto Press, 2000.
Deji, Olanike F. (2011).
Gender and Rural Development. London: LIT Verlag Münster. p. 93.
Domhoff, G. William (2013).
Who Rules America? The Triumph of the Corporate Rich. McGraw-Hill. p. 288.
Doob, Christopher (2012). Social Inequality and Social Stratification
in US Society (1st ed.), Pearson Education.
Doob, Christopher (2013).
Social Inequality and Social Stratification in US Society. Upper Saddle River, New Jersey:
Pearson Education Inc. p. 38
Douglass C. North, John
Joseph Wallis, and Barry R. Weingast (2012). Violence and Social Orders: A Conceptual Framework for Interpreting
Recorded Human History. Cambridge: Cambridge University Press (2012).
Drèze, Jean, and Amartya Sen
(1995). India: Economic Development and
Social Opportunity. Delhi, Oxford University Press, New York.
Durkheim, Émile (1893, 2008). De la
division du travail social: étude sur l'organisation des sociétés supérieures.
Paris: Alcan, 1893., https://archive.org/detail/.
Durkheim, Émile (1982).
Preface to the second edition. In The Rules of Sociological Method and Selected Texts on Sociology
and its Method. Edited with an introduction by Steven Lukes; translated by W. D.
Halls. New York: The Free Press. pp. 34–47.
Eaton, Jonathan and Samuel Kortum
(2001). Trade in Capital Goods.
European Economic Review 45:1195–1235.
Elias, J. (2007). Women Workers and Labour Standards: The
Problem of “Human Rights”’, Review of International Studies, 33(1):45-57
Ekelund,
R. & Hebert, R. (2007). A History
of Economic Theory and Method 5th Edition. Waveland Press, United States,
p. 105.
Ellis Jones, Ross Haenfler and
Brett Johnson (2001). Bringing Social
Change to Average Folks: The Power of Everyday Actions. Left Hand Books.
December 2001. Boulder, CO.
Esping-Andersen, Gøsta (1993).
Changing classes stratification and mobility in post-industrial societies. London Newbury Park, California:
Sage Publications.
Form William, Nico Wilterdink
(2002). Social structure, https://www.britannica.com/
Friedman, Ellen & Jennifer Marshall
(2004). Issues of Gender. New York: Pearson Education, Inc.
Frisbie, Parker (1975). Measuring the Degree of Bureaucratization at
the Societal Level. Soc Forces (1975) 53 (4): 563-573.
Geertz, Clifford (1963)
Agricultural Involution: The Processes of Ecological Change in Indonesia.
Berkeley and Los Angeles, California: University of California Press.
Gehlen, Arnold (1914). Der Mensch, seine Natur und seine Stellung
in der Welt. AULA-Verlag, Wiebelsheim 2014.
Gellner,
Ernest (1983). Nations
and Nationalism. Ithaca: Cornell University Press.
Giddens, Anthony (1971).
Capitalism and Modern Social Theory: an Analysis of the Writings of Marx,
Durkheim and Max Weber. Cambridge University Press.
Giddens, Anthony (1973). The
Class Structure of the Advanced Societies. London : Hutchinson.
Giddens, Anthony (ed.) (1986). Durkheim
on Politics and the State. Cambridge: Polity Press.
Ginsberg M. (1958). Social Change, The British Journal of
Sociology, Vol. 9, No. 3, Sep., 1958.
Goldthorpe J. (1987). Social
mobility and class structure in modern Britain. Oxford: Clarendon Press.
Gorski, Philip (2008). After Secularization? In Annual
Review of Sociology 34(1): 55-85.
Gouldner, Alvin (1970). The
Coming Crisis of Western Sociology. London: Heineman, 1970.
Gowdy, John (2006).
Hunter-gatherers and the mythology of the market. In
Lee, Richard B. and Richard H. Daly. The Cambridge Encyclopedia of
Hunters and Gatherers. Cambridge University Press. pp. 391–393.
Greenwood C. Lawrence Jr. (Vice President, Asian Development Bank) 2008. Sustainable Natural Resource Use and
Economic Competitiveness: Challenges and Opportunities. Greater Mekong
Subregion Economic Cooperation Program Second Environment Minister’s Meeting.
Grusky, David B. (2011). Theories of Stratification and Inequality.
In Ritzer, George and J. Michael Ryan. The
Concise Encyclopedia of Sociology. Wiley-Blackwell. pp. 622–624. Retrieved
23 June 2014.
Grusky, David B. (2011a). Theories of Stratification and Inequality. In Ritzer, George and J.
Michael Ryan. The Concise Encyclopedia of
Sociology. Wiley-Blackwell. pp. 622–624.
Grusky, David B (2011b). The Past, Present and Future of Social
Inequality. In Social Stratification:
Class, Race, and Gender in Sociological Perspective (Second Edition).
Boulder: Westview Press. pp. 3–51.
Grusky, David B. & Ann Azumi
Takata (1992). Social Stratification.
The Encyclopedia of Sociology. Macmillan Publishing Company. pp. 1955–70.
Guess,Teresa J (2006).
The Social Construction of Whiteness: Racism by Intent, Racism by Consequence. Critical Sociology. 32 (4): 649–673.
Habermas, Jürgen (1987). The
Theory of Communicative Action Volume 2. Lifeworld and System: A
Critique of Functionalist Reason. Boston: Beacon, 1987.
Hall, Stuart (1977). Rethinking
the Base and Superstructure Metaphor. Papers on Class, Hegemony and Party.
Bloomfield, J., ed. London: Lawrence & Wishart, 1977.
Halsall, Paul (1997). Modern History Sourcebook: Summary of
Wallerstein on World System Theory, Fordham University.
Harman, Chris (1986). Base
and Superstructure. International Socialism 2:32, Summer 1986, pp. 3–44.
Harris, Marvin (1967). The Rise of Anthropological Theory: A
History of Theories of Culture. Routledge.
Harrison,
D. (1988). The Sociology of Modernization
and Development. London: Unwin Hyman Ltd.
Hechter, M. and Horne, C. (2003). Theories of Social Order: A Reader.
Stanford University Press.
Henrard, Kristen (2000).
Devising an Adequate System of Minority Protection: Individual Human Rights,
Minority Rights and the Right to Self-Determination. New York: Springer.
Hilary
Silver (1994). Social Exclusion and
Social Solidarity. International Labour Review 133, nos. 5-6 (1994):
531-78.
Holborn,
M. & Langley, P. (2004). Sociology: Themes and perspectives, AS
& A level Student Handbook, accompanies the Sixth Edition: Haralambos &
Holborn,London: Collins Educational.
Holmwood, John (2006). Society. The Cambridge Dictionary of
Sociology, Edited by Bryan S. Turner. Cambridge University Press.
Hout, Michael and Claude Fischer
(2014). Explaining Why More Americans
Have No Religious Preference: Political Backlash and Generational Succession,
1987-2012.” Sociological Science 1(9).
Hout, W. (1993). Capitalism and
the Third World: Development, dependence and the world system, Hants:
Edward Elgar, 1993.
Ingold, Tim (2006). On the social relations of the
hunter-gatherer band, in Richard B. Lee and Richard H. Daly (eds.), The Cambridge Encyclopedia of Hunters and Gatherers,
p. 400. New York: Cambridge University Press.
Innes M. (2003). Understanding Social Control: Crime and
Social Order in Late Modernity - Deviance, crime and social order.
McGraw-Hill Education (UK).
Isaacs, Harold 2004 (Ed.)
Exploring Conflicts
and conflict Resolution in the Contemporary Third World.
In ATWS Proceedings, Twenty Second Annual Meeting (2004) Americus, GA:
Association of Third World Studies, Inc., 2005, 97 pp.
Janowitz, Morris (1975). Sociological Theory and Social Control. American Journal of Sociology.
The University of Chicago Press Article. 81 (1): 82–108.
Joseph E. Davis ed. (2000). Identity and
Social Change. Routledge, Taylor & Francis Group. First
published by Transaction Publisher.
Karl Marx - Friedrich Engels
(1969). Die deutsche Ideologie,
Werke, Band 3, S. 5 – 530 Dietz Verlag, Berlin/DDR 1969.
Kenneth, A. (2006). Contemporary social and sociological theory:
visualizing social worlds. Thousand Oaks, CA: Pine Forge Press, 2006.
Kerr C., J. T. Dunlop, F. H. Harbison and C. A. Myers (1962). Industrialism and Industrial Man. Heinemann,
London.
Knight, C. (2008). Early Human Kinship was Matrilineal. In
N. J. Allen, H. Callan, R. Dunbar and W. James (eds), Early Human Kinship.
London: Royal Anthropological Institute, pp. 61–82.
Kondratieff N. (1935). The Long Waves in Economic Life. Review
of Economics and Statistics 18(6): 105–15.
Kondratieff N. 2002. Big Cycles of Conjuncture and Theory of
Prevision, Selected Works / Ed. by Y. V. Yakovets, and L. I. Abalkin. In
Russian (Кондратьев Н. Д. Большие циклы конъюнктуры и теория предвидения.
Избранные труды / Pед. Я. В. Яковец, Л. И. Абалкин. М.: Экономика).
Kondratieff N. 2004 [1922]. The World Economy and its Conjunctures
During and After the War / Ed. by Y. V. Yakovets, and N. A. Makasheva;
transl. by V. Wolfson. Moscow: International Kondratieff Foundation.
Krugman, Paul (2011). More
Thoughts on Equality of Outcome. Published in The New York Times.
(January 11, 2011)
Kymlicka, Will (1995). Multicultural
Citizenship: A Liberal Theory of Minority Rights. Oxford University Press,
1995.
Lepenies Wolf (2010). Auguste
Comte: die Macht der Zeichen, Carl Hanser, Munich.
Lindell, Michael K.; Carla S.
Prater; Ronald W. Perry; William C. Nicholson (2006). Fundamentals of Emergency Management. United States, Federal
Emergency Management Agency.
Lockwood, David (1958). Some Remarks on the Social System. In British
Journal of Sociology vol.7. no.2. 1958. pp. 115–124.
Luhmann,
Niklas (1984, 1995). Soziale Systeme: Grundriß einer allgemeinen Theorie,
Frankfurt: Suhrkamp (English translation: Social Systems, Stanford:
Stanford University Press, 1995).
MacIver R. and Page C. (1949). Society: An Introductory Analysis. New
York: Holt, Rinehart.
Macionis, Gerber, John, Linda (2010).
Sociology 7th Canadian Ed. Toronto, Ontario: Pearson Canada Inc. p. 243.
Mason, K. & H. Carlsson (2004).
The Impact of Gender Equality in Land Rights on Development. In
Human Rights and Development: Towards Mutual Reinforcement. New York.
Maslow A. (1943). A Theory of Human Motivation, in
Psychological Review, 1943, Vol. 50-4, pp. 370–396).
McIntire, C. T.; Perry, Marvin, eds. (1989).
Toynbee: Reappraisals. University of Toronto Press.
McRoberts, Kenneth (1997). Misconceiving
Canada: The Struggle for National Unity. Oxford University Press, 1997.
Merton,
Robert K. (1968). Social Theory and
Social Structure, Free Press.
Mies, Maria (1999).
Patriarchy and Accumulation on a World Scale: Women in the International
Division of Labour. London: Palgrave MacMillan.
Modis, T. (2007). Strengths and weaknesses of S-curves.
In Technological Forecasting and Social Change,
2007, 74(6), 866-872.
Mommsen, Wolfgang J. (1992). The Political and Social Theory of Max
Weber: Collected Essays, University of Chicago Press.
Moore,
Wilbert E. (1964) Social Change, Prentice Hall: New Jersey.
Murdock, George Peter
(1949). Social Structure. New York: The MacMillan Company.
Neumayer, Eric (2010). Human Development and Sustainability. In
Human Development Research Paper,
United Nations Development Programme.
Ngân hàng Thế giới (2005). Sổ
tay hoạt động của Ngân hàng Thế giới – Chính sách hoạt động OP 4.10, tháng 7
năm 2005. Văn phòng Ngân hàng Thế giới tại Hà Nội.
Nielsen, Kai 1987. Rejecting
Egalitarianism, Political Theory, Vol. 15, No. 3 (Aug., 1987), pp. 411-423.
Noel, Donald L. (1968).
A Theory of the Origin of Ethnic Stratification. Social Problems. 16 (2): 157–172.
Norbert, Elias (1994). The
Civilizing Process. Sociogenetic and Psychogenetic Investigations. Oxford:
Basil Blackwell.
Ogburn,
William F. (1966). Social change: With
respect to cultural and original nature. Oxford England: Delta Books.
Olinto, Pedro & Jaime Saavedra
(April 2012). An Overview of Global
Income Inequality Trends". Inequalitty in Focus. 1 (1).
Ostergren R. C. and Rice J. G. (2004). The
Europeans: A Geography of People, Culture and Environment (New York:
Guilford Press).
Oxfam International (2014). Rigged rules mean economic growth
increasingly "winner takes all" for rich elites all over world.
Oxfam, 20 January 2014.
Pakulsky, Jan (2006). Social Stratification. The Cambridge
Dictionary of Sociology, Edited by Bryan S. Turner. Cambridge University Press,
pp. 586-7.
Parsons, Talcott (1951). The social system. First published in
England, 1951by Routledge & Kegan Paul Ltd.
Parsons, Talcott (1961). An Outline of the Social System, pp.
36-43, 44-7, 70-2 from Talcott Parsons, Edward A. Shils, Kaspar D. Naegle, and
Jesse R. Pitts (eds.), Theories
of Society (New York: Simon &
Schuster, The Free Press, 1961).
Parsons, Talcott 1983. The
Structure and Change of the Social System Edited by Washio Kurata (lectures
from Parsons' second visit to Japan).
Perry-Rivers, P. (2014).
Stratification, Economic Adversity, and Entrepreneurial Launch: The Converse
Effect of Resource Position on Entrepreneurial Strategy". Entrepreneurship
Theory & Practice.
Phan Xuân Sơn (2015). Phát triển
xã hội. Tạp chí Lý luận chính trị
số 5-2015, Hà Nội.
Pieterse, Nederveen Jan (1988). A Critique of World System Theory,
International Sociology, Volume: 3 issue: 3, page(s): 251-266, September 1,
1988.
Poore, S. (2007). Overview of Social Control Theories. The
Hewett School. Retrieved on: September 2, 2007.
Population Reference
Bureau (2013). World Population Data
Sheet". Population Research Bureau.
Power, A., Wilson, W.J., (2000). Social
Exclusion and the Future of Cities, Centre for Analysis of Social
Exclusion, London School of Economics, London.
Prescott-Allen, R. (2001). The
wellbeing of nations. Washington DC: Island Press.
Putman R. 1993. The
Prosperous Community: Social Capital and Public Life, in : The American
Prospect, Volume 4, Issue 13, March 21, 1993, 35-42.
Quarantelli E.L. (editor) (1998). Where We Have Been and Where We Might Go,
What is a Disaster?: A Dozen Perspectives on the Question, London,
Routledge, 1 edition 1998, pp.146-159
Radcliffe-Brown A.R. (1940). On Social Structure, The Journal of the
Royal Anthropological Institute of Great Britain and Ireland, Vol. 70, No.1
(1940), 1-12.
Rapley, Mark & Susan Hansen
(2006). Society. In The Cambridge Dictionary of Sociology,
Gen. Ed. Bryan S. Turner, Cambridge University Press.
Raskin, P. 2006. The Great Transition
Today: A Report from the Future. Boston.
Reckwitz, Andreas (2002). The Status of the “Material” in Theories of
Culture: From “Social Structure” to “Artefacts”, Journal for the Theory of Social Behaviour 32:2, The
Executive Management Committee/ Blackwell Publishers Ltd. 2002
Robèrt,
Karl-Henrik 2002. The Natural Step Story: Seeding a Quiet Revolution.
Gabriola Island, BC: New Society Publishers.
Robertson I. (1989). Society: A Brief Introduction. New York:
Worth Publishing Co.
Robinson A.M. (2007). Multiculturalism
and the Foundations of Meaningful Life. UBC Press, 2007.
Sahlins, Marshall D. (1960).
Evolution and Culture, edited with Elman R Service. Ann Arbor: University
of Michigan Press.
Samapti, Marakkath, Nadiya (Eds.)
(2015). Technology and Innovation for
Social Change, Publisher Springer India.
Sass, J., and Crosbie, T. (2013). Democracy and Scandal: A esearch Agenda.
Comparative Sociology. 12(6): 851-862.
Saunders, Peter (1990). Social Class and Stratification.
Routledge.
Segnestam, Lisa (2002). Indicators of Environment and Sustainable
Development Theories and Practical Experience, The World Bank Environment
Department, Room MC-5-126. Paper No.89, Environmental Economics Series.
Sen, A., (1980). Equality of
What? in McMurrin (ed.), Tanner Lectures on Human Values, Cambridge:
Cambridge University Press.
Sen, A. (1984). Rights and
Capabilities, in Resources, Values and Development, Cambridge, MA:
Harvard University Press, pp. 307–324.
Sen, A. (1985). Commodities and
Capabilities, Amsterdam: North-Holland.
Sen, A., (1993). Capability and
Well-being, in Nussbaum and Sen (eds.), The Quality of Life, Oxford:
Clarendon Press, pp. 30–53
Sen, A. (2005). Human Rights
and Capabilities, in Journal of Human Development, 6(2): 151–66.ane.
Shils, Edward (1961). The
Intellectual Between Tradition and Modernity: The Indian Situation.
Comparative Studies in Society and History, Supplement 1. The Hague: Mouton.
Silver,
Hilary (2007). Social Exclusion:
Comparative Analysis of Europe and Middle East Youth, Middle East Youth
Initiative Working Paper (September 2007), p.15
Sorokin, Pitirim (1937). Social
and Cultural Dynamics, Cincinnati: American Book Company, 1937-41. 4 vol.
Sorokin, Pitirim (1947). Society,
Culture, and Personality: Their Structure and Dynamics, A System of General
Sociology, Harper & Brothers Publishers, New York & London.
Sorokin, Pitirim (1957). Social and Cultural Dynamics: A Study of Change in Major Systems
of Art, Truth, Ethics, Law and Social Relationships, Boston: Extending Horizons
Books.
Spencer, Herbert (1896, 1962). The study of sociology. New York, D. Appleton and Company.
Stark, Rodney (2007).
Sociology, Tenth Edition. Thompson Wadsworth.
Stern, Bernhard J. (1946) Lewis Henry Morgan Today; An Appraisal of
His Scientific Contributions, In Science & Society, vol. 10, no.
2 (Spring 1946), pp. 172–176.
Struening, Karen (2002).
New Family Values: Liberty, Equality, Diversity. New York: Rowman &
Littlefield.
Stutz, John 2006. The Role of Well-being in a Great Transition. Tellus Institute 11 Arlington Street Boston, USA.
Sullivan, Shannon (2006).
Revealing Whiteness: The Unconscious Habits of Racial Privilege. Indiana
University Press.
Sussman G.D (2011). Was the black death in India and China?.
Bulletin of the history of medicine. 85 (3): 319–55.
Talcott Parsons, ed. (1968). Knowledge
and Society - American Sociology. New York: Basic Books, 1968.
Talcott Parsons (1983). The
Structure and Change of the Social System Edited by Washio Kurata.
Taylor, Charles (1994). Multiculturalism:
Examining The Politics of Recognition. Ed. Amy Gutmann. Princeton
University Press, 1994.
Throsby,
David (1994). The Production and
Consumption of the Arts: A View of Cultural Economics, In Journal of
Economic Literature, V. XXXII, 1994, pp. 1-29
Throsby,
David 2001. Economics and Culture, Cambridge University Press, 2001.
Thủ tướng Chính phủ (2015). Quyết định số 1614/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án tổng thể Chuyển đổi phương pháp tiếp
cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.
Hà Nội, ngày 15 tháng 9 năm 2015.
Tönnies,
Ferdinand (1887, 1995). Gemeinschaft und Gesellschaft, Leipzig: Fues's
Verlag. An English translation of the 8th edition 1935 by Charles P. Loomis
appeared in 1940 as Fundamental Concepts of Sociology (Gemeinschaft und
Gesellschaft), New York: American Book Co.; in 1955 as Community and
Association (Gemeinschaft und gesellschaft[sic]), London: Routledge.
Toye, David L. (May 2004). The Emergence of Complex Societies: A
Comparative Approach. World History Connected. 11 (2).
Toynbee, Arnold J. (1939) A Study of History, In volume V The
Disintegration of Civilizations (Part One) (Oxford University 1939).
Tilly, Charles (1975).
Western State-Making and Theories of Political Transformation. Chapter 9 in
Tilly (ed.), 1975.
Tilly, Charles (1984). Social
Movements and National Politics. In Bright and Harding.
Tschannen,
Oliver (1991). The
Secularization Paradigm: A Systematization. In Journal for
the Scientific Study of Religion 30:395-415
Turner, Bryan S. (1993). Citizenship and Social Theory, London:
Sage.
Turner, Bryan S. (2006). Institution(s). The Cambridge Dictionary
of Sociology, Edited by Bryan S. Turner. Cambridge University Press.
UNEP
(United Nations Environment Programme) (1980). World
Conservation Strategy: Living Resource Conservation for Sustainable
Development. International Union for Conservation of Nature and Natural
Resources, Gland.
United Nations (1987). Report of the
World Commission on Environment and Development. General Assembly Resolution 42/187, 11 December 1987.
United Nations (1995). Indicators of Sustainable Development:
Guidelines and Methodology (UN, Division for Sustainable Development;
approved by the Commission on Sustainable Development at its Third Session in
1995).
United Nations (1996). Work
Programme on Indicators of Sustainable Development of the Commission on
Sustainable Development, prepared by The Division for Sustainable Development in the Department for Policy
Coordination and Sustainable Development, United Nations, New York.
Uỷ ban về các
vấn đề Xã hội của Quốc hội (2009). Tuyên
ngôn về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc,
tôn giáo và ngôn ngữ của Liên hợp quốc - Trang tin của Nhóm nữ Nghị sĩ Việt
Nam - Uỷ ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội.
Vincent J. 2002. Anthropology
of Politics: A Reader in Ethnography, Theory, and Critique. Blackwell
Publisher.
von Herder, Johann Gottfried (1774 – 1776). Oldest Document of the Human Race
(1774-76).
Waites, Bernard (1999). Europe and the Third World: From
Colonisation to Decolonisation, c. 1500 - 1998 (New York, 1999), 225.
Wallerstein, I. (1974). The
Modern World System: Capitalist Agriculture and the Origins of the European
World Economy in the Sixteenth Century, New York: Academic Press, 1974.
Wallerstein, Immanuel Maurice (1974). The Modern World-System I: Capitalist Agriculture and the Origins of
the European World-Economy in the Sixteenth Century. New York: Academic
Press.
Wallerstein,
Immanuel Maurice (2004). World-systems analysis: An introduction. Duke
University Press.
Warner, W. Lloyd (1945). The Social Systems of American Ethnic Groups.
New Haven, Yale University Press.
Warner, W. Lloyd (1960). Social class in America: A Manual of
Procedure for the Measurement of Social Status. Gloucester, Mass., P.
Smith.
Weber, Max (2008). Nền đạo đức
Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Dịch giả: Bùi Văn Nam Sơn,
Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang. Nhà xuất bản Tri Thức. Hà Nội 2008.
White, Leslie A. (1959). The Evolution of Culture: The Development of Civilization to the Fall
of Rome, published by Left Coast Press.
Wilterdink
Nico, William Form (1998). Social change. https://www.britannica.com/
Woodard,
James W. (1934). Critical Notes on the
Culture Lag Concept. Social Forces 12.3 (Mar. 1934): 388-398.
World Bank (2006). Social Development Papers, South Asia Series.
Social Development Department.
Worsley, Peter (1979). One World or Three? A Critique of World
System Theory of Immanuel Wallerstein. This paper was prepared for a Conference in Berlin in September 1979
organised by the Institut fiir
Vergleichende Sozialforschung (Viện Nghiên cứu So sánh Xã hội).
Wright, Erik Olin (1997).
Class counts: comparative studies in class analysis. Cambridge New York Paris:
Cambridge University Press.
Young, P. (1993). Technological growth curves: A competition
of forecasting models. In Technological
Forecasting and Social Change, 1993, 44(4), 375-389.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét