Powered By Blogger

Chủ Nhật, 25 tháng 10, 2020

Phê phán Lévi-Strauss và Trào lưu Cấu trúc luận (VIII)

Simon Clarke

Người dịch: Hà Hữu Nga

VI. Cấu trúc luận trong Ngôn ngữ học

Trong hai chương vừa rồi, tôi đã chỉ ra cái cách cảm hứng triết học cơ bản của Lévi-Strauss đã thúc đẩy ông phát triển một lý thuyết riêng biệt về xã hội và phương pháp phân tích nhằm nỗ lực khám phá ý nghĩa khách quan của văn hóa nhân loại. Đặc biệt, Lévi-Strauss đã tìm cách phân lập các hệ thống thân tộc như là các hệ thống ý nghĩa khách quan tồn tại và có thể được phân tích một cách độc lập với ứng dụng cụ thể của chúng hoặc ý nghĩa của chúng đối với các cá nhân cụ thể. Những hệ thống ý nghĩa khách quan này mà Lévi-Strauss định vị trong tâm trí vô thức, không chỉ xác định rằng chúng sẽ là khách quan, mà còn xác định rằng chúng sẽ cơ bản hơn bất kỳ cách diễn giải chủ quan nào về chúng. Phương pháp cấu trúc, và sự nhấn mạnh tương ứng vào các thuộc tính hình thức của các hệ thống đang được xem xét, tiếp theo nỗ lực này nhằm phân lập ý nghĩa khách quan, phổ quát của các hệ thống đó.

Trong chương trước, tôi đã lập luận rằng quan điểm này về thế giới con người như một thế giới của các hệ thống văn hóa khách quan, vô thức hoặc tập thể, trong đó các cá nhân được đưa vào, đó là nguồn cảm hứng cơ bản của cấu trúc luận. Nó là kết quả của việc tìm kiếm ý nghĩa khách quan của văn hóa, và nó dẫn đến sự phân lập các hệ thống văn hóa khách quan phục tùng việc nghiên cứu bằng các phương pháp của khoa học thực chứng.

Do đó, cấu trúc luận dường như có khả năng xác lập các khoa học nhân văn khách quan và độc lập, bởi vì nó cung cấp cho các khoa học đó các lĩnh vực nghiên cứu khách quan và độc lập của riêng chúng: các hệ thống văn hóa cụ thể mà các khoa học này quan tâm, cho dù đó là nghệ thuật, văn học, âm nhạc, thần thoại, hoặc, như trong trường hợp đã được nghiên cứu, các hệ thống quan hệ thân tộc.

Khả năng đứng vững của cấu trúc luận hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng phân lập các hệ thống ý nghĩa khách quan và tự trị thực sự của nó. Các yêu sách khoa học của cấu trúc luận, cũng như duy tâm luận văn hóa mà các tuyên bố kia lấy làm cơ sở, đều phụ thuộc vào giá trị hợp lệ của nỗ lực phân lập các hệ thống văn hóa đó. Trong trường hợp của lý thuyết quan hệ thân tộc, tôi lập luận rằng các hệ thống như vậy trên thực tế không thể được phân lập, vì một khi các hệ thống quan hệ thân tộc đã được trừu tượng hóa khỏi bối cảnh dân tộc chí của chúng, thì không còn gì để giải thích.

Trong trường hợp của Lévi-Strauss, thất bại trong việc làm cho dữ liệu dân tộc chí tương ứng với đối tượng lý tưởng mà ông đã kiến tạo đã khiến ông rút lui vào cái vô thức và mặc định một sự tồn tại thuần túy siêu hình cho đối tượng này, kết quả là ông đã cung cấp kiến ​​thức về một đối tượng vì sự tồn tại của nó mà không có bằng chứng, trong khi ông đã quy giản hiện thực dân tộc chí, vốn tách rời đối tượng này, thành tình trạng bóp méo lớn đối với thực tế cơ bản, nhưng không thể tiếp cận này, được tạo ra bởi ảo tưởng chủ quan và các sự kiện lịch sử ngẫu nhiên.

Trong trường hợp cấu trúc luận của Needham và Dumont, thất bại trong việc định vị bất kỳ thuộc tính phổ quát khách quan nào của các hệ thống quan hệ thân tộc trước hết đã dẫn đến một chủ nghĩa hình thức trống rỗng và cuối cùng dẫn đến việc từ bỏ bất kỳ nỗ lực nào nhằm khái quát hóa vượt ra ngoài bối cảnh dân tộc chí cụ thể trong đó các hệ thống cụ thể được tìm thấy.

Mặc dù công trình của Lévi-Strauss, và đặc biệt là Cấu trúc Cơ bản, là động lực chính thúc đẩy sự phát triển của cấu trúc luận với tư cách là một trào lưu trí tuệ, tác động kích thích này có được sức mạnh là nhờ ở một thực tế là công trình của Lévi-Strauss tái tạo một cách tiếp cận đã được phát triển khá độc lập trong ngôn ngữ học. Trên hết, hội tụ này gợi ý rằng cách tiếp cận cấu trúc luận có thể có khả năng ứng dụng tổng quát hơn so với các lĩnh vực ngôn ngữ học và nghiên cứu quan hệ thân tộc cụ thể đã được phát triển trong đó.

Ngôn ngữ học quan trọng với cấu trúc luận vì một số lý do. Thứ nhất, mặc dù cấu trúc luận của Lévi-Strauss được hình thành khá độc lập nhưng chỉ khi tiếp xúc với ngôn ngữ học, ông mới nhận thức đầy đủ về các hàm ý lý thuyết, phương pháp luận và triết học trong cách tiếp cận của mình, và chỉ có cuộc gặp gỡ đó đem đến cho ông sự tự tin để khái quát hóa những phát hiện của mình và xuất trình cấu trúc luận như một phương pháp cho toàn bộ các ngành khoa học nhân văn. Hơn nữa, ngôn ngữ học đã lấp đầy khoảng trống cuối cùng trong lý thuyết của Lévi-Strauss bằng cách cung cấp cho ông một lý thuyết thuần túy trí tuệ về cái vô thức, và chính điều này đã giúp ông xây dựng triết học nhân văn của mình.

Thứ hai, chính năng lực ngôn ngữ của con người hơn bất cứ thứ gì khác giúp phân biệt con người với các loài động vật khác, và chính ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp biểu tượng mạnh mẽ nhất và đầy đủ nhất mà con người có được. Do đó, đối với cấu trúc luận, quan tâm chính xác đến vấn đề nền tảng khách quan của văn hóa, và đến việc phân tích văn hóa như một chuỗi các hệ thống biểu trưng, do đó ngôn ngữ học phải có những tuyên bố mạnh mẽ với tư cách là khoa học nhân văn cơ bản.

Thứ ba, cách tiếp cận cấu trúc luận trong ngôn ngữ học (sử dụng thuật ngữ theo nghĩa Châu Âu thay vì theo nghĩa Bắc Mỹ) có những thành tựu đáng kể trong việc nâng cao hiểu biết và kiến ​​thức của chúng ta về ngôn ngữ. Do đó, những thành tựu của cấu trúc luận trong ngôn ngữ học, ít nhất cũng như trong nhân học, đã mang lại cho cấu trúc luận một thẩm quyền khoa học rõ ràng.

Thứ tư, ngôn ngữ học đã cung cấp nguồn cảm hứng trực tiếp cho sự phát triển của cấu trúc luận hiện đại, hoàn toàn độc lập với Lévi-Strauss. Điều này đặc biệt đúng với sự hưng thịnh của ký hiệu học, nó thể hiện sự mở rộng các phương pháp của ngôn ngữ học sang các hệ thống biểu tượng phi-ngôn ngữ. Vì vậy, Roland Barthes và nhóm Tel Quel đã phát triển một ký hiệu học cấu trúc luận độc lập không liên hệ với Lévi-Strauss, mặc dù công trình của họ sau đó bị ảnh hưởng bởi Lévi-Strauss.

Trong chương này, tôi muốn xem xét cấu trúc luận trong ngôn ngữ học. Cấu trúc luận trong ngôn ngữ học dựa trên những nền tảng hoàn toàn giống với những nền tảng được Lévi-Strauss phát triển độc lập trong Cấu trúc Cơ bản. Nó cũng được cho là đã thiết lập ngôn ngữ học như một khoa học thực chứng bằng cách phân lập các hệ thống khách quan của ý nghĩa ngôn ngữ, không phụ thuộc vào bất kỳ ứng dụng cụ thể nào hoặc bất kỳ cách diễn giải chủ quan cụ thể nào, mà nó đã định vị trong tâm trí vô thức. Trong chương này, tôi muốn xem xét cấu trúc luận ngôn ngữ để hỏi xem liệu nó có thành công trong việc phân lập ngôn ngữ thành một hệ thống khách quan như vậy hay không.

1. Saussure và Khách tính của Ngôn ngữ

Saussure được ca ngợi là người sáng lập ra khoa học ngôn ngữ học hiện đại vì chính ông là người đã phân lập ngôn ngữ như một vật thể tự trị có thể phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học. Mục đích của ông, chừng nào có thể, phân lập ngôn ngữ khỏi những xem xét về tâm lý, xã hội học và sinh lý học, và vì vậy, để giải thích các sự kiện của ngôn ngữ chỉ bằng cách tham chiếu đến các ràng buộc ngôn ngữ học”. Ông đã thực hiện điều đó bằng cách áp dụng ba phép tương phản. Saussure phân biệt giữa langue ngôn ngữ parole lời nói, giữa hình thứcvật chất, giữa đồng đạilịch đại. Việc áp dụng những tương phản này xác định một kho sự kiện ngữ liệu khoa học khép kín, một hệ thống ngôn ngữ khách quan được cho là tách rời khỏi bất kỳ ứng dụng cụ thể nào của hệ thống hoặc từ bất kỳ cách diễn giải cụ thể nào về nó.

Sự phân biệt giữa ngôn ngữ langue tiếng nói parole một phần bắt nguồn từ Durkheim, nhưng chủ yếu, có vẻ như từ Meillet, Naville và Whitney. Mục đích của sự phân biệt là để tách một hệ thống nằm đằng sau hành động ngôn ngữ khỏi chính hành vi đó, và do đó để tách các câu hỏi thuần túy về ngôn ngữ học khỏi những câu hỏi sẽ đưa ra các xem xét về tâm lý, sinh lý hoặc xã hội học. Langue, đối với Saussure, đại diện cho xã hội và điều cần thiết, trong khi tạm tha đại diện cho phụ kiện và tình cờ. Do đó, langue có thể so sánh chặt chẽ với lương tâm tập thể của Durkheim như một hệ thống khách quan bên ngoài cái cá nhân và chống lại ý chí cá nhân. Ngôn ngữ học giới hạn chú ý vào các sự kiện của langue ngôn ngữ, và do đó, được cung cấp một đối tượng không bị can thiệp phát sinh trong việc sử dụng langue ngôn ngữ.

Mặc dù langue ngôn ngữ là một đối tượng-lý tưởng, được nhà phân tích kiến tạo bằng cách trừu tượng hóa từ các câu thực tế mà người bản ngữ sử dụng, Saussure tin rằng langue ngôn ngữ là một hiện thực cụ thể có “vị trí trong não của nó. Do đó, Saussure vẫn giữ cái tâm trí luận của những người cùng thời với ông, khi tìm cách giải thích các sự kiện của ngôn ngữ bằng các sự kiện của tư duy, được coi là đã được xác lập. Do đó, đối với Saussure, dấu hiệu ngôn ngữ là một thực thể tâm lý, hợp nhất giữa khái niệmhình ảnh-âm thanh, và ngôn ngữ học là một nhánh chuyên biệt của tâm lý học.1

Sự tương phản cơ bản thứ hai được Saussure đưa ra là giữa hình thức và vật chất: Ngôn ngữ là hình thức chứ không phải vật chất.2 Đối với Saussure, mối quan hệ giữa khái niệm và hình ảnh-âm thanh tạo nên dấu hiệu là một quan hệ võ đoán. Không có gì trong khái niệm cây làm cho âm thanh cây trở nên đặc biệt thích hợp, cũng như bản thân âm thanh cây không chứa bất cứ điều gì thuộc khái niệm của nó. Do đó, mỗi ngôn ngữ sử dụng một mẩu âm thanh khác nhau để biểu thị một mẩu suy nghĩ khác nhau, và việc gán khái niệm cho hình ảnh-âm thanh là võ đoán. Về mặt này, ngôn ngữ nói khác với các hệ thống ký hiệu khác ở chỗ mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt (hai mặt của ký hiệu) không phải là võ đoán. Văn bản biểu ý là ví dụ rõ ràng, trong đó khái niệm cây có thể biểu thị bằng hình ảnh một cái cây.

Đối với Saussure, tư tưởng và âm thanh đại diện cho hai thể liên tục, trong trường hợp không có ngôn ngữ: Không có ngôn ngữ, tư tưởng là một tinh vân mơ hồ chưa được khám phá Vật chất ngữ âm không cố định cũng không chắc chắn hơn tư tưởng…. Không chỉ hai lĩnh vực được liên kết bởi sự kiện ngôn ngữ là không định hình và lẫn lộn, nhưng việc lựa chọn một lát âm thanh nhất định để đặt tên cho một ý tưởng nhất định là hoàn toàn võ đoán”.3

Do đó, ký hiệu ngôn ngữ học không lấy những tưởng có trước và những âm thanh có sẵn rồi liên kết từng cái một theo cách nguyên tử luận. Thay vào đó, ngôn ngữ liên hệ hai hệ thống với nhau, hệ thống âm thanh và hệ thống tưởng, phân chia mỗi thể liên tục theo một cách cụ thể. Chính quan niệm về ý nghĩa này đối với Lévi-Strauss trái ngược hẳn với siêu hình học của Bergson.4

Chính quan niệm này làm cơ sở cho sự tách rời hình thức khỏi vật chất. Sự khác biệt giữa các ngôn ngữ khác nhau là sự khác biệt về hình thức, sự khác biệt về cách thức mà các vật chất chung, các thể liên tục của âm thanh và tư tưởng, được phân chia thành các ngôn ngữ khác nhau. Do đó, ngôn ngữ học chỉ quan tâm đến hình thức chứ không quan tâm đến vật chất của ngôn ngữ, vật chất là một vấn đề bị nhà ngôn ngữ học thờ ơ. Ví dụ, hệ thống âm thanh chỉ được tạo ra bởi các mối quan hệ giữa các âm thanh, hiện thực vật lý của âm thanh là không liên quan. Từ quan điểm ngôn ngữ học, tất cả điều quan trọng nhất chính những khác biệt giữa các âm thanh được đưa vào thành những gì đương nhiên là một thể liên tục.

Việc nhấn mạnh vào hình thức này trực tiếp xuất phát từ sự phân lập hệ thống ngôn ngữ khỏi chất liệu và nền tảng khái niệm của nó. Bằng cách trừu tượng hóa hoàn toàn khỏi bản chất, ngôn ngữ học có được quyền tự chủ của nó khỏi sinh lý học và tâm lý học. Do đó, âm vị học, nghiên cứu hệ thống âm thanh của ngôn ngữ với tư cách là một hệ thống hình thức, được phân biệt với ngữ âm học, nghiên cứu vật chất âm thanh ngôn ngữ học và là một nhánh của sinh lý và tâm lý học. Do đó, chính việc phân lập hệ thống ngôn ngữ đã làm nảy sinh phương pháp phân tích cấu trúc, vì trong sự trừu tượng hóa khỏi nội dung, ngôn ngữ chỉ còn là hình thức thuần túy. Câu hỏi quan trọng quan trọng là liệu hình thức có thể được chia tách khỏi nội dung theo cách này hay không.

Quan niệm về dấu hiệu cũng giúp Saussure có thể tách âm thanh ra khỏi tư tưởng có thể nghiên cứu hệ thống âm thanh và hệ thống tư tưởng độc lập với nhau. Điều này có nghĩa là ngôn ngữ học có thể phân tích ngôn ngữ như một sự kết hợp của các âm thanh mà không đưa ra bất kỳ tham chiếu nào về ý nghĩa. Ý nghĩa tương quan có thể được phân tích độc lập với âm thanh, do đó âm vị học và ngữ nghĩa là những nhánh riêng biệt của ngôn ngữ học.

Phép tương phản thứ ba của Saussure hoàn thành việc phân lập một hệ thống khép kín có thể trở thành đối tượng của việc phân tích ngôn ngữ riêng biệt. Saussure phân biệt quan điểm đồng đại, hoặc tĩnh tại, với quan điểm lịch đại, hoặc tiến hóa, theo tính ưu việt với quan điểm đồng đại. Quan điểm đồng đại tập trung hoàn toàn vào mối quan hệ giữa các bộ phận của hệ thống ngôn ngữ tại một thời điểm cụ thể. Quan điểm lịch đại nghiên cứu mối quan hệ lịch sử giữa các sự kiện ngôn ngữ. Saussure đưa ra một số lý do khác nhau cho việc ưu tiên tính đồng đại, và sự phản đối của ông đối với chủ nghĩa lịch sử, vốn có nguồn gốc cá nhân cũng như các nguồn gốc cá nhân mang tính hệ tư tưởng và khoa học, chắc chắn khiến ông phải tìm kiếm các quy luật của hệ thống. Hai lập luận chính của ông rất khác nhau về kiểu loại.

Thứ nhất, Saussure đưa ra lập luận mang tính tâm trí luận. Tâm lý luận của ông có nghĩa là ông quan tâm chủ yếu đến việc thiết lập các kết nối logic và tâm lý. Do đó, quan điểm đồng đại “chiếm ưu thế, vì nó là hiện thực chân thực và duy nhất đối với cộng đồng những người nói, trong khi các mối liên hệ lịch sử không có hiện thực tâm lý.5 Lập luận này rõ ràng phụ thuộc vào giả định mang tính tâm trí luận cho rằng ngôn ngữ học là một nhánh của tâm lý học.

Thứ hai, Saussure đưa ra một lập luận phương pháp luận. Chính đặc trưng của đối tượng ngôn ngữ học khiến nó có thể thích hợp để phân tích đồng đại: Bởi vì dấu hiệu là võ đoán, nên nó không tuân theo quy luật nào ngoài quy luật truyền thống. Saussure lập luận bằng phép loại suy với kinh tế học cận biên, ở một mức độ đáng kể đã đưa ra cho ông một mô hình cho ngôn ngữ học hệ thống của riêng mình. Từ cận biên luận, ông vay mượn quan niệm giá trị như một quan hệ võ đoán giữa một sự vật và một mức giá, sau đó ông áp dụng cho mối quan hệ ngôn ngữ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Trong mỗi trường hợp, giá trị được xác định bằng cách đưa yếu tố đó vào hệ thống cân bằng và do đó phụ thuộc hoàn toàn vào mối tương quan giữa các yếu tố chứ không phụ thuộc vào các trạng thái quá khứ của hệ thống.6

Điều thực tế mà Saussure đưa ra hai lập luận cho mức độ ưu tiên của tính đồng đại là rất quan trọng, vì các lập luận này loại trừ lẫn nhau. Công trình của Saussure bị chẻ ra bởi sự mâu thuẫn giữa hai quan điểm khá khác nhau về ngôn ngữ và về ngôn ngữ học. Quan điểm thống trị là quan điểm tâm trí luận mà theo đó ngôn ngữ là một hiện thực tâm lý, nằm trong bộ não, và nhà ngôn ngữ học khám phá các kết nối tâm lý. Ngôn ngữ học sau đó là một nhánh tự trị của tâm lý học. Quan điểm khác cho rằng ngôn ngữ là một th chế tập thể, và do đó, một hiện thực xã hội, vì vậy nhà ngôn ngữ học khám phá các kết nối chức năng. trường hợp thể chế tập thể, nhà ngôn ngữ học quan tâm đến việc khám phá các quan hệ tâm lý giữa các yếu tố của ngôn ngữ, còn trong trường hợp hiện thực xã hội, nhà ngôn ngữ học quan tâm đến việc khám phá các quan hệ ngôn ngữ. Hai trường hợp đó không hề giống nhau: trong khi các mối quan hệ ngôn ngữ không cần có hiện thực tâm lý học, thì các mối quan hệ tâm lý lại không cần có ý nghĩa ngôn ngữ học.

Lập luận mang tính tâm trí luận thiên về ưu tiên của tính đồng đại rõ ràng chỉ áp dụng cho quan điểm tâm trí luận của ngôn ngữ học. Mặt khác, lập luận phương pháp luận không có tác dụng nếu ngôn ngữ học quan tâm đến các mối liên hệ tâm lý và logic, vì dấu hiệu không phải là võ đoán theo quan điểm tâm lý học. Ý nghĩa của âm thanh cây đối với một cá nhân cụ thể không chỉ được xác định bởi các mối quan hệ của nó với các âm thanh ngôn ngữ học khác: các tương phản của nó với bụi cây, ngôi nhà, bầu trời, cây cột”, v.v. Nó còn được xác định bởi tất cả các cách sử dụng trước đây của dấu hiệu mà cá nhân đã gặp phải: những cái cây mà nó đã được áp dụng vào, các ngữ cảnh mà nó đã được thốt lên. Vì vậy, nếu tôi nghe thấy một từ, thì các kết nối tâm lý mà nó thiết lập đồng thời chỉ đến một toàn bộ một loạt sự kiện ngôn ngữ trong quá khứ. Vì vậy, nếu ngôn ngữ được xem như một hiện thực tâm trí thì dấu hiệu không thể nào võ đoán và ý nghĩa của nó không thể nào được xác định bởi các mối quan hệ của nó với các yếu tố cùng thời của ngôn ngữ đó.

Ngôn ngữ học đã bị quấy rầy bởi sự lẫn lộn giữa quan điểm tâm lý học và ngôn ngữ học kể từ thời Saussure. Cả hai quan điểm đều hợp thức, nhưng chúng loại trừ lẫn nhau ở chỗ không chỉ đưa ra những giải thích khác nhau mà còn giải thích những điều khá khác nhau. Cách tiếp cận ngôn ngữ học quan tâm đến ngôn ngữ như một hệ thống chức năng hoạt động. Phương pháp tiếp cận tâm lý liên quan đến cái cách mà cá nhân học và sử dụng một ngôn ngữ. Một ngôn ngữ tồn tại ở giao điểm của hai cách tiếp cận này: nó phải vận hành như một ngôn ngữ, và mọi người phải có thể học và sử dụng nó.

Bởi vì Saussure coi ngôn ngữ như một hiện tượng tinh thần, nên ông tạo ra các cách tiếp cận đồng đại lịch đại loại trừ lẫn nhau. Ông nhấn mạnh không có quan điểm phiếm thời (không hạn chế vào một thời điểm cụ thể), vì vậy ngôn ngữ không thể được coi là một hệ thống đang phát triển, bởi vì quan điểm đồng đại tìm kiếm các kết nối nội tại, tâm lý học và hệ thống, trong khi quan điểm lịch đại không liên quan đến hệ thống mà là các giới hạn. Do đó, lịch sử đối với Saussure là sự tích hợp các sự kiện ngẫu nhiên vào một hệ thống ổn định, và sự thay đổi ngôn ngữ học trở nên không thể giải thích được.

Việc áp dụng ba sự tương phản cung cấp cho ngôn ngữ học một đối tượng. Đối tượng đó bao gồm một hệ thống các dấu hiệu đồng đại và ổn định mà trong đó nhà ngôn ngữ học có thể tìm kiếm các kết nối logic và tâm lý học”. Hệ thống này không phải là một đối tượng được trình bày cho nhà ngôn ngữ học, nhưng đã được phân tích tách biệt khỏi diễn ngôn trên cơ sở một số giả định về bản chất của ngôn ngữ. Hiệu quảđể phân lập ngôn ngữ với tư cách là một đối tượng khoa học khỏi người nói, khỏi người nghe và khỏi ngữ cảnh mà ngôn ngữ được sử dụng. Do đó, một đối tượng-lý tưởng được xây dựng để tạo thành một hệ thống khép kín mà các quan hệ của nó có thể được thiết lập thuần túy khách quan.

Khám phá của Saussure về một hệ thống nội tại trong các mối quan hệ giữa các giới hạn rõ ràng đã giúp thiết lập một ngôn ngữ học khoa học. Ngay cả nghĩa, trong lý thuyết của Saussure, cũng có thể được đưa ra một định nghĩa khách quan và hệ thống chặt chẽ. Đó là hệ thống của những khác biệt, được áp đặt trên thể liên tục của kinh nghiệm, tạo ra sự chính xác cho trạng thái hỗn độn” Bergsonien*. Sự hội tụ giữa thành tựu của Saussure và của Lévi-Strauss có vẻ đáng ngạc nhiên, một minh chứng cho lý thuyết của mỗi người.

Tuy nhiên, điều quan trọng là phải rất rõ ràng rằng thành tựu khoa học ngôn ngữ học của Saussure không hơn gì thành tựu khoa học nhân học của Lévi-Strauss. Saussure không bao giờ cố thể hiện triết học ngôn ngữ của mình trong các phân tích hệ thống về các hệ thống ngôn ngữ cụ thể, và vì vậy nó vẫn có tính chương trình. Hơn nữa, nó là một chương trình cực kỳ hỗn độn ở nhiều khía cạnh, đó là một nguyên do tại sao Saussure có thể được các trường phái ngôn ngữ học rất khác nhau coi là một ông t. Sự hội tụ nảy sinh không phải vì Saussure và Lévi-Strauss đã độc lập khám phá ra điều gì đó về hiện thực, mà bởi vì họ độc lập đặt ra cho mình cùng một nhiệm vụ.

Nhiệm vụ này chính là phát triển một khoa học thực chứng về văn hóa nhân loại dựa trên quan niệm về các hiện tượng văn hóa như là những hệ thống khách quan của các hình thức tách rời chủ thể cá nhân, với những quy luật nội tại và cụ thể của chúng, áp đặt chúng lên cá nhân bằng sức mạnh của vô thức. Trong trường hợp của Saussure, cũng giống như trường hợp của Lévi-Strauss, chính chương trình tư tưởng này đã làm nảy sinh cách tiếp cận cấu trúc, và nó làm nảy sinh các vấn đề lý thuyết có thể so sánh được.

2. Thực chứng luận và Hiện tượng luận trong Nghiên cứu Ngôn ngữ

Saussure đề xuất một ngôn ngữ học khoa học dựa trên sự phân lập ngôn ngữ như một hệ thống ổn định, được xác định rõ ràng, khách quan mà ngôn ngữ học có thể phân tích các quan hệ nội tại của nó bằng các phương pháp khoa học thực chứng. Chương trình của Saussure đặt ra nhiều câu hỏi sẽ phải đối mặt trước khi có thể phát triển được một ngôn ngữ học hệ thống, nhưng việc ông kiên định ưu tiên hình thức hơn nội dung là rất quan trọng trong việc tạo ra sự xuất hiện của ngôn ngữ học như một ngành học tự trị. Vật chất ngữ âm và vật chất tâm lý học của ngôn ngữ có thể được nghiên cứu bằng âm học, sinh lý học và tâm lý học. Tuy nhiên, hình thức của ngôn ngữ không thể được nghiên cứu bởi các bộ môn khác, hình thức đó phải là trách nhiệm của ngôn ngữ học và chỉ của ngôn ngữ học mà thôi: chính hình thức, các quan hệ hệ thống giữa các bộ phận, đã làm cho thể nền ngữ âm và tâm lý học có chức năng như một ngôn ngữ.

Công trình của Saussure là một khoảnh khắc nhỏ trong cuộc biến động về trí tuệ và tư tưởng ở các chiều góc toàn cầu, trong đó người ta bắt đầu tập trung chú ý vào các mối quan hệ hệ thống giữa các bộ phận của những toàn thể mà thực chứng luận thế kỷ XIX đã cố gắng phân tách thành các nguyên tử thành phần của chúng. Theo nghĩa này, cấu trúc luận trong ngôn ngữ học chỉ đơn giản là một phần của trào lưu toàn cầu và không có ý nghĩa đặc biệt. Như Jakobson đã viết vào năm 1929:

Nếu chúng ta bao gồm ý tưởng hàng đầu của khoa học ngày nay vào hầu hết các biểu hiện khác nhau của nó, thì chúng ta khó có thể tìm thấy một chỉ định nào thích hợp hơn cấu trúc luận. Bất kỳ tập hợp hiện tượng nào được khoa học đương đại xem xét đều không được coi là sự kết tụ cơ học mà là một tổng thể cấu trúc, và nhiệm vụ cơ bản là làm bộc lộ các quy luật bên trong, dù là tĩnh tại hay phát triển, của hệ thống này. Cái dường như là trọng tâm của các mối bận tâm khoa học không còn là yếu tố kích thích bên ngoài, mà là các tiền đề bên trong của sự phát triển; bây giờ quan niệm cơ học về các quá trình đều dẫn đến câu hỏi về các chức năng của chúng.7

Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, Saussure đã giới thiệu một cách nhìn mới coi ngôn ngữ như một hệ thống. Thay vì coi ngôn ngữ như một cơ thể trong đó tính tổng thể của ngôn ngữ bắt nguồn từ một phẩm chất tinh thần siêu việt nào đó, ông lại xem ngôn ngữ như một hệ thống mà tính tổng thể của nó bắt nguồn từ các kết nối nội tại, mang tính hình thức, giữa các bộ phận của nó. Do đó, quan niệm của Saussure về ngôn ngữ như một hệ thống khiến nó có thể hướng theo một tiến trình giữa các rạn nứt của nguyên tử luận”siêu việt luận”: cái tổng thể lớn hơn tổng các bộ phận của nó, nhưng nó không hơn tổng các mối quan hệ giữa các bộ phận.

Tuy nhiên, trước khi có thể phát triển ngôn ngữ học mới, cần phải xác định rõ ràng hơn so với Saussure rằng thứ chính xác là đối tượng mới của ngôn ngữ học chính langue ngôn ngữ. Đối với Saussure, langue ngôn ngữ vẫn là một hiện thực tâm lý và các quan hệ mà ông tìm kiếm là các quan hệ tâm lý được môn tâm lý học trực giác luận khám phá. Do đó, đơn vị cơ bản của âm thanh là ấn tượng thính giác. Hai âm thanh khác nhau thể hiện một ấn tượng thính giác duy nhất nếu chúng được trải nghiệm như một âm thanh giống nhau và chúng khác nhau nếu các chủ thể nói ý thức được sự khác biệt. Điều này dẫn đến một quan niệm về các đơn vị âm thanh của ngôn ngữ như là các yếu tố vật chất rời rạc, được xác định độc lập với các mối quan hệ giữa các yếu tố, một quan niệm tỏ ra khá bất cập. Vì vậy, ngôn ngữ học không thể phát triển trên cơ sở tâm trí luận của Saussure được. Các mối quan hệ của ngôn ngữ không thể là các kết nối tâm lý học có ý thức giữa các yếu tố vật chất rời rạc như Saussure đã đặt định, mà phải mang tính chất trừu tượng hơn.

Nếu langue ngôn ngữ không được xác định tức thời như một thực tại tâm lý, thì sẽ nảy sinh câu hỏi về vị thế của đối tượng của ngôn ngữ học. Làm thế nào để phân lập ngôn ngữ khỏi dữ liệu của parole lời nói? Những quan hệ nào tạo nên hình thức langue ngôn ngữ? Các yếu tố của langue ngôn ngữ được thống nhất bởi các quan hệ đó là gì? Trạng thái của các mối quan hệ được khám phá là gì - chúng có tương ứng với các kết nối tâm lý thực sự hay thậm chí là các kết nối hữu cơ hay chúng có một vị thế nào đó khác?

Có hai cách tiếp cận riêng biệt cho những câu hỏi này được tìm thấy trong ngôn ngữ học, có thể được mô tả một cách chung rộng là cách tiếp cận thực chứng luậncách tiếp cận hiện tượng luận. Quan điểm thực chứng cho rằng đối tượng-lý tưởng, langue ngôn ngữ, được nhà ngôn ngữ phân lập tương ứng với một thực tại tâm lý hoặc hành vi vật chất, do đó langue ngôn ngữ tồn tại độc lập và trước parole lời nói. Điều này có nghĩa là các thuật ngữ của lý thuyết ngôn ngữ có thể được dịch thành các thuật ngữ quan sát mô tả một hiện thực là cơ chế mà mọi người sử dụng khi họ nói. Do đó, ngôn ngữ học đối với Saussure cũng giống như một nhánh độc lập của tâm lý học. Do đó, việc nghiên cứu ngôn ngữ làm bộc lộ các sự kiện về cơ thể sinh học hoặc tâm lý của con người.

Quan điểm hiện tượng luận cho rằng không có thứ gọi là langue ngôn ngữ tách rời khỏi bối cảnh mà ngôn ngữ được sử dụng. Một khi sự trừu tượng hóa đã được tạo ra từ ngữ cảnh, đến mức ngôn ngữ đó tách khỏi người nói hoặc người nghe mà sự tương tác của nó khớp nối thành, thì nó không còn là ngôn ngữ và trở thành một mớ âm thanh vô nghĩa. Để khám phá những gì mang tính ngôn ngữ học về ngôn ngữ, để khám phá những mối quan hệ hệ thống khiến ngôn ngữ có thể trở thành phương tiện truyền đạt ý nghĩa, chúng ta phải không được đề cập đến những quan hệ khách quan tồn tại giữa các bộ phận của một vật thể trơ, mà thay vào đó đề cập đến ý định của người nói thứ ngôn ngữ áp đặt ý nghĩa cho ngôn ngữ. Vì vậy, ngôn ngữ phải được xem như hệ thống chức năng và các quan hệ bên trong của ngôn ngữ phải liên quan đến chức năng của ngôn ngữ như một công cụ để thực hiện các ý định giao tiếp.

Đối với cách tiếp cận hiện tượng luận, langue ngôn ngữ là một sự trừu tượng và các mối quan hệ tạo nên hệ thống ngôn ngữ là những quan hệ trừu tượng, không vốn có ở đối tượng, mà được áp đặt lên đối tượng theo ý định của người nói và được phục hồi bởi người nghe. Ngôn ngữ không phải là một hiện thực khách quan, nhưng cũng không hoàn toàn là chủ quan, nó là sự biểu hiện liên chủ thể của một ý định chủ quan. Ngôn ngữ học liên quan đến việc nghiên cứu cách thức mà ngôn ngữ với tư cách là một hiện thực thông thường làm cho các âm thanh đơn thuần có thể mang lại một ý định chủ quan cho một hiện thực liên chủ thể. Vì ngôn ngữ không thể hiện các cơ chế sinh lý hoặc tâm lý, nên ngôn ngữ học không thể cho chúng ta biết bất cứ điều gì trực tiếp về tâm trí hoặc bộ não.

Cả hai cách tiếp cận này đều có thể được sử dụng để hợp thức hóa việc phân tích cấu trúc của ngôn ngữ, nhưng cả hai cách tiếp cận cũng đều hợp thức hóa việc phân tích theo những cách khác nhau, hiểu các mối quan hệ xuất hiện khá khác nhau và đưa ra những kết luận rất khác nhau từ những phát hiện của ngôn ngữ học.

Ngôn ngữ học của Saussure dựa trên một tâm lý học trực giác luận, trong đó các mối quan hệ bên trong của ngôn ngữ được khám phá bằng nội quan. Vào thời điểm Saussure đang viết, đây là cách tiếp cận chủ đạo được triết học thực chứng luận ch trương, và được minh chứng bởi tâm lý học của Wundt hoặc Titchener (nhiệm vụ của họ không phải là khám phá các cấu trúc, mà là phân tách chúng thành các yếu tố cấu trúc). Vào thời điểm đó, người ta cho rằng chỉ có một số chân lý được bộc lộ bằng nội quan và vì vậy nội quan cung cấp cơ sở duy nhất cho một khoa học thực sự khách quan. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ học cũng như tâm lý học, đã sớm trở nên rõ ràng rằng chân lý của nội quan còn lâu mới được đảm bảo. Từ thời điểm này, sự khác biệt giữa thực chứng luận và hiện tượng luận xuất hiện.

Hiện tượng luận, được Husserl phát triển trên cơ sở nghiên cứu của Brentano, đã tìm cách xác lập những chân lý trực quan chắc chắnhiển nhiên, trong khi thực chứng luận, được Russell, Wittgenstein và trên hết là Trường phái Vienna phát triển, tìm cách thiết lập lại một khoa học vững chắc trên cơ sở từ bỏ hoàn toàn quan điểm của chủ thể, bác bỏ mọi cầu viện đến các bằng chứng dựa trên các báo cáo chủ quan.

Trong tâm lý học, một sự phân rẽ tương ứng được phát triển giữa một tâm lý học hiện tượng luận bắt đầu dựa trên sự phục hồi trực giác của ý nghĩa và một tâm lý học hành vi luận từ bỏ bất kỳ sự cầu viện nào đối với nội quanxóa bỏ bất kỳ tham chiếu nào đến tâm trí hoặc một hiện thực tâm trí nào là siêu hình một cách vô vọng.

Cơ sở của sự khác biệt trong mỗi trường hợp là việc tìm kiếm sự chắc chắn, cho một ý nghĩa tồn tại của con người phải chắc chắn chân thực. Đối với các cách tiếp cận hiện tượng luận, ý nghĩa thực sự của tồn tại người là chủ quan không thể quy giản, phải được khám phá trong những chủ ý của con người mà nó thể hiện. Đối với hành vi luận, ý nghĩa chủ quan là hiện tượng thuần túy, một ảo tưởng cao ngạo, có thể quy giản thành hiện thực chân thực duy nhất là hiện thực của các quá trình hữu cơ làm cơ sở cho các kết nối giữa các kích thích và phản ứng. Do đó, hành vi luận suy ra một cấu trúc khách quan của cái cơ thể từ các thuộc tính của hành vi con người.

Sự phân rẽ song hành với sự phân rẽ giữa Sartre và Lévi-Strauss đã được xem xét: cả hai đều tìm kiếm ý nghĩa chân thực của sự tồn tại người đằng sau sự lừa dối và đạo đức giả của xã hội đương đại, một người tin rằng đó là ý nghĩa chủ quan phải được tìm thấy thông qua phê phán triết học về kinh nghiệm chủ quan, còn người kia lại tin rằng đó là ý nghĩa khách quan, gắn liền với bản chất con người, được thể hiện trong khách tính của các thành tựu văn hóa của con người. Tất nhiên, ngôn ngữ là thứ nổi trội trong số những thành tựu đó. Như vậy việc nghiên cứu ngôn ngữ đã vừa phản ánh vừa kích thích cuộc tranh luận triết học cơ bản giữa thực chứng luận và hiện tượng luận.

_______________________________________

Còn nữa…

Nguồn: Clarke, Simon (1981). The Foundations of Structuralism – a Critique of Lévi-Strauss and the Structuralist Movement, Lecturer in Sociology, University of Warwick, First published in Great Britain in 1981 by The Harvester Press Limited Publisher.

Tác giả: Simon Clarke (sinh ngày 26 tháng 3 năm 1946) là một nhà xã hội học người Anh chuyên về lý thuyết xã hội, kinh tế chính trị, quan hệ lao động và lịch sử xã hội học. Ông đặc biệt quan tâm đến quan hệ việc làm ở Trung Quốc, Việt Nam và các quốc gia thuộc Liên Xô cũ. Ông là Giáo sư danh dự về xã hội học tại Đại học Warwick. Simon Clarke sinh ra ở London, là con trai của nhà văn Tom Clarke. Ông tốt nghiệp Đại học Cambridge năm 1967 với bằng kinh tế hạng nhất. Sau một năm giảng dạy kinh tế tại Khoa Kinh tế Chính trị của Đại học College London, Clarke bắt đầu học tiến sĩ tại Đại học Essex, luận án của ông có tựa đề Cấu trúc luận của Claude Lévy-Strauss. Năm 1972, Simon Clarke gia nhập Khoa Xã hội học tại Đại học Warwick, nơi ông vẫn làm việc cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2009. Trong những năm 1970 và 1980, Simon Clarke được biết đến nhiều nhất với các công trình của ông trong lĩnh vực lý thuyết xã hội và kinh tế chính trị. Công việc ban đầu của ông tập trung vào gốc rễ của xã hội học hiện đại, phê phán cấu trúc luận và xem xét lịch sử của ngành này từ nguồn gốc của nền kinh tế chính trị cổ điển đến hình thức hiện đại của nó. Năm 1990, Simon Clarke đã có một loạt bài giảng cho một nhóm các nhà xã hội học trẻ tuổi của Liên Xô tại Viện Thanh niên ở Moscow. Năm 1998, chương trình nghiên cứu đã được mở rộng để bao gồm các tổ chức công đoàn hậu xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và Việt Nam.

* Ghi chú của người dịch:

Keith Ansell-Pearson đã từng viết: Trong cuộc đời của mình, Bergson là một trong những triết gia nổi tiếng và được nhiều người đọc nhất trên thế giới, nhưng ảnh hưởng của ông nhanh chóng suy yếu, ngay cả ở Pháp, đến mức mà sau này Deleuze phải lưu ý rằng “Ngày nay có khối kẻ cười nhạo tôi chỉ vì đã từng viết về Bergson. Lévi-Strauss có lẽ đã tóm tắt quan điểm thịnh hành trong những năm 1950 khi ông châm biếm rằng Bergson đã quy giản mọi thứ thành trạng thái hỗn độn để làm nổi bật tính khôn tả vốn có của nó. (Ansell-Pearson, Keith, Philosophy and the Adventure of the Virtual: Bergson and the Time of Life, Routledge, 2002, 256pp.)

Ghi chú

1. F. de Saussure, Course of General Linguistics, Fontana, London, 1974, pp. 15, 66.

2. Ibid., p. 122.

3. Ibid., pp. 112-3.

4. TT, p. 55.

5. Saussure, op. cit., pp. 81, 90, 99-100.

6. Ibid., pp. 74, 79.

7. R. Jakobson, Word and Language, Mouton, The Hague, 1971, p. 711.

8. N. Chomsky, 'Review of B. F. Skinner, Verbal Behaviour,' Language, 35,1,1959, pp. 26-58.

9. N. Chomsky and M. Halle, The Sound Pattern of English, Harper & Row, New York, 1968, p.4.

10. P. Peters and R. Ritchie, 'A Note on the Universal Base Hypothesis'.Journal of Linguistics, 5, 1969, p. 150.

11. R. Jakobson, 'Linguistics' in International Study on the Main Trends of Research in the Social and Human Sciences, Mouton, The Hague, 1970, p. 430.

12. G. Mounin, Clefs pour la Linguistique, Seghers, Paris, 1968, p. 96.

13. N. Trubetzkoj, Principles of Phonology, University of California Press, Berkeley, 1969, p. 38.

14. Jakobson, 1970, op. cit., p. 458.

15. R. Jakobson and J. Tyanyanov, 'Problems of Literary and Linguistic Studies', New Left Review, 37, 1966, p. 60.

Các tác giả được đề cập

Achinstein P. and S. Barker (eds): The Legacy of Logical Positivism, Johns Hopkins University Press, 1969.

Bloomfield M.: Language, Allen & Unwin, 1957.

Cassirer E. : 'Structuralism in Modern Linguistics', Word, 1945.

Chomsky N.: Syntactic Structures, Mouton, 1957.

----------: 'Review of B. F. Skinner: Verbal Behaviour', Language, 1959.

----------: Aspects of the Theory of Syntax, M I T Press, 1965.

----------: Topics in the Theory of Generative Grammar, Mouton, 1966.

----------: Cartesian Linguistics, Harper & Row, 1966.

----------: Current Issues in Linguistic Theory, Mouton, 1967.

----------: Studies on Semantics in Generative Grammar, Mouton, 1972.

Chomsky N. and M. Halle: The Sound Pattern of English, Harper & Row, 1968.

M. Cohen: 'Quelques notations historiques et critiques autour du structuralisme en linguistique', Pensée, 1967.

Derwing B.: Transformational Grammar as a Theory of Language Acquisition, CUP, 1973.

Dubois J.: 'Structuralisme et linguistique', Pensée, 1967.

Erlich V.: Russian Formalism, Mouton, 1955.

Fodor J. and J. Katz (eds): The Structure of Language, Prentice Hall, 1964.

Garvin P. : On Linguistic Method, Mouton, 1964.

Harman G. (ed.): On Noam Chomsky, Doubleday, 1974.

Harris Z.: Methods in Structural Linguistics, University of Chicago Press, 1951.

Hjelmslev L. : Prolegomena to a Theory of Language, Waverly Press, 1953.

Hockett C.: The State of the Art, Mouton, 1968.

Hook S. (ed.): Language and Philosophy, New York University Press, 1969.

Holenstein E.: Roman Jakobson's Approach to Language, Indiana University Press, 1976.

Jakobson R.: 'The Notion of Grammatical Meaning According to Boas', American Anthropologist, memoir 89, 1959.

-------- (ed.): The Structure of Language and its Mathematical Aspects, Proceedings of the 12th Symposium in Applied Mathematics, American Mathematical Society, 1961.

--------: 'Linguistics and Poetics', in T. Sebeok (ed.): Style in Language, MIT Press, 1966.

--------: Selected Writings, Mouton, 1966.

--------: 'Linguistics', in International Study on the Main Trends of Research in the Social and Human Sciences, Mouton, 1970.

--------: Word and Language, Mouton, 1971.

--------: Six Lectures on Sound and Meaning, Harvester, 1978.

Jakobson R. and J. Tynyanov: 'Problems of Literary and Linguistic Studies', New Left Review, 37, 1966.

Katz J. : 'Mentalism in Linguistics', Language, 1964.

Katz J. : The Philosophy of Language, Harper & Row, 1966.

Kolakowski L. : Edmund Husserl and the Search for Certitude, Yale University Press, 1975.

Krige J.: Science, Revolution, Discontinuity, Harvester, 1979.

Lepschy G. : A Survey of Structural Linguistics, Faber, 1970.

Lyons J. : Introduction to Theoretical Linguistics, CUP, 1968.

---------: Chomsky, Fontana, 1977.

Martinet A. : A Functional View of Language, OUP, 1962.

Mounin G. : Clefs pour la Linguistique, Seghers, 1968.

----------: Saussure, Seghers, 1968.

Peters P. and R. Ritchie: 'A Note on the Universal Base Hypothesis', Journal of Linguistics, 1969.

Quine W.: Word and Object, M I T Press, 1960.

de Saussure F. : Course of General Linguistics, Fontana, 1974.

Searle J. : 'Review of N. Chomsky: Reflections on Language', Times Literary Supplement, 10 September, 1976.

Stegmüller E. : Main Currents in Contemporary German, British and American Philosophy, Reidel, 1969.

Trubetskoi N. : Principles of Phonology, University of California Press, 1969.

Vachek (ed.) J. : A Prague School Reader in Linguistics, Indiana University Press, 1964.

Volosinov V. (M. Baxtin): Marxism and the Philosophy of Language, Seminar, 1973.

Wilks Y.: 'Review of N. Chomsky: Current Issues', Linguistics, 1967.

----------: Grammar, Meaning and the Machine Analysis of Language, Routledge & Kegan Paul, 1972.

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét