Powered By Blogger

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2025

Husserl về Kant và Quan điểm Phê phán Logic (II)

Mirja Hartimo

Người dịch: Hà Hữu Nga

Theo đó, sau khi đã phân biệt giữa mục đích cao nhất của logic và mục đích của toán học, Husserl thảo luận về các nguyên lý logic (nguyên lý mâu thuẫn và nguyên lý loại trừ giữa, modus ponens và modus tollens [Modus ponens và modus tollens là hai dạng lập luận hợp lệ cơ bản trong logic, cả hai đều dựa trên các tuyên bố có điều kiện; Modus ponens (khẳng định điều kiện trước) khẳng định rằng nếu một điều kiện (P) là chân, thì một hệ quả (Q) cũng phải chân. Modus tollens (phủ nhận hệ quả) khẳng định rằng nếu một hệ quả (Q) là giả, thì điều kiện (P) cũng phải giả, HHNG]) trong FTL, trước tiên là các nguyên lý của logic phi mâu thuẫn và sau đó là các nguyên lý của logic chân lý, do đó liên quan đến các lý tưởng chuẩn mực hoặc mục đích cao nhất của lý thuyết hình thức đang được đề cập. Trong cả hai trường hợp, chúng đều được đưa ra một phiên bản khách quan và một phiên bản chủ quan. Các phiên bản khách quan là các khẳng định về sự tồn tại toán học lý tưởng (logic phi-mâu thuẫn) hoặc khả tính đầy đủ (logic-chân lý), nhưng xét về mặt chủ quan, các nguyên lý liên quan đến các hiệu suất chủ quan. Các phiên bản chủ quan của các nguyên lý logic của logic truyền thống liên quan đến suy lý. Người ta đưa ra các chuẩn mực như “[tro]ng hai phán đoán (trực tiếp hoặc [tr.12] gián tiếp) mâu thuẫn với nhau, mà chỉ một phán đoán có thể được bất kỳ người phán đoán nào chấp nhận trong một phán đoán thống nhất thích hợp hoặc riêng biệt” (FTL, 197/190). Những chuẩn mực này được biện minh nếu chúng xuất phát từ các nguyên tắc khách quan. Vậy thì các nguyên tắc chủ quan như thế này thiết lập các quy luật suy luận, do đó gần với logic chung của Kant hơn. Nhưng trái ngược với quan điểm của Kant, phạm vi của các nguyên tắc logic không được coi là chung. Như chúng ta sẽ thấy ngay sau đây, phạm vi áp dụng của các nguyên tắc này không nên được chấp nhận một cách thiếu phê phán. Thay vì, về cơ bản, đó là vấn đề xem xét siêu việt nhằm hướng đến các mục tiêu lý tưởng của lý thuyết hình thức cơ bản.

4. Phê phán của Husserl đối với Kant

Với khái niệm logic này trong bối cảnh, lời phê phán của Husserl đối với Kant trong FTL giờ đây hẳn đã hoàn toàn rõ ràng. Husserl viết: “Logic của Kant được trình bày như một khoa học hướng đến cái chủ quan - một khoa học về tư duy, tuy nhiên, về mặt nguyên tắc, được phân biệt với tâm lý học kinh nghiệm về tư duy. Nhưng trên thực tế, theo ý nghĩa của nó, logic thuần túy hình thức của Kant liên quan đến các hình thái lý tưởng [idealen Denkgebilde] do tư duy tạo ra. Và, liên quan đến chúng, Kant không đặt ra những câu hỏi siêu việt đúng nghĩa về khả tính nhận thức (FTL, 267/260). Mặc dù logic của Kant liên quan đến cái chủ quan, nhưng Husserl vẫn thừa nhận rằng, xét một cách nghiêm ngặt, logic thuần túy hình thức của Kant cũng đi kèm với những ý định hướng tới các hình thái  lý tưởng. Kant, khi nói về các hình thức tư duy, đã tự ngầm cam kết với một số loại lý tưởng tính. Thật vậy, Husserl cho rằng Kant và những người ủng hộ logic ‘hình thức’ hoặc ‘thuần túy’ khác có những ý định xác đáng, “nhưng lại không được họ quan niệm và định nghĩa đúng đắn về nội dung và phạm vi của nó” (Prolegomena §3). Vậy thì tại sao Husserl lại tuyên bố rằng nó là chủ quan? Như đã ám chỉ trước đó, lý do cho điều này có lẽ là logic chung của Kant là về các quy tắc cho tư duy, giống như các phiên bản chủ quan của Husserl về các nguyên tắc logic đã thảo luận ở trên. Về mặt này, Husserl thấy quan điểm của Kant về logic là “chủ quan” - đó là về các hành động suy lý của một chủ thể. Logic được thảo luận theo vai trò suy luận hơn là vai trò mô tả. Vì vậy, quan điểm của Kant về logic chung [tr.13] là tiên nghiệm và lý thuyết, nhưng lại không đầy đủ về nội dung và phạm vi. Logic của Kant tạo ra một lý thuyết chủ quan, mặc dù là tiên nghiệm, về lý luận. Do đó, logic và mọi thứ được xây dựng theo logic, bao gồm cả khoa học, đều là chủ quan: Giống như thế giới trực quan của các cơ thể, toàn bộ thế giới khoa học tự nhiên (và cùng với nó là thế giới nhị nguyên có thể được biết đến bằng cách khoa học) là một cấu trúc chủ quan của trí tuệ chúng ta; chỉ có cái vật chất của dữ liệu-giác quan phát sinh từ một tình cảm siêu việt bởi “những vật tự thân”. (Crisis, §25)

Do đó, Kant đã tạo ra được “một loại chủ quan luận siêu việt mới ,vốn bắt đầu từ Kant và chuyển thành những hình thức mới trong các hệ thống chủ nghĩa duy tâm Đức” (§25). Husserl cho rằng trong tính định hướng đến cái chủ quan của mình, logic của Kant bị hạn chế quá mức, bởi vì các hình thái lý tưởng mà logic có ý định đề cập đến, tuy nhiên lại bị loại khỏi phạm vi của logic. Husserl cho rằng “tính lý tưởng của các hình thái mà logic quan tâm [nên được coi] là đặc điểm của một ‘thế giới’ riêng biệt, độc lập của các đối tượng lý tưởng” (FTL, 267/261). Do đó, Kant “không nắm bắt được ý nghĩa đặc biệt mà logic là lý tưởng. Nếu không, ý nghĩa đó chắc chắn đã mang lại cho ông động cơ để đặt ra những câu hỏi siêu việt” (FTL, 267/261). Như chúng ta đã thấy ở trên, quan điểm của Husserl về tính lý tưởng hay tính trừu tượng của logic không chỉ dẫn đến việc đưa “ngữ nghĩa” vào quan niệm của ông về logic. Nó còn khiến ông thấy rõ vai trò của logic trong việc mô tả các cấu trúc hình thức và mối quan hệ của chúng với nhau, như trong quan điểm của Hilbert về tiên đề thấm đẫm một thứ lý thuyết chung về các đa tạp. Đối với Husserl, logic là lý tưởng theo nghĩa nó có nội dung lý tưởng được đưa ra bởi các cấu trúc trừu tượng. Ở đây, quan điểm của Kant về logic hình thức gần hơn với cái cách mà nhiều nhà triết học đương đại quan niệm về logic, trong khi quan điểm của Husserl lại là quan điểm của một “nhà toán học” về logic, bao gồm bản thể luận hình thức như một lý thuyết về các cấu trúc hình thức.

Phê phán chín muồi của Husserl về quan điểm logic của Kant rất kỳ lạ lại trùng khớp với cách mà Husserl trước đó nghĩ rằng ý niệm thuần túy về logic đòi hỏi phải có trực giác phạm trù. Trong khi đối với Kant, trực giác và phạm trù thuộc về các khoa khác nhau, do đó, bản thân khái niệm trực giác phạm trù đối với ông sẽ vô nghĩa, thì đối với Husserl, thuật ngữ này lại nắm bắt được ý tưởng cho rằng các cấu trúc phạm trù - các cấu trúc lý tưởng mà thế giới giả định – là nằm ngoài chúng ta. Thông qua trực giác phạm trù, các khách tính phạm trù (chẳng hạn như [tr.14] trạng thái của các vấn đề) được trao cho chúng ta. Vào thời điểm thảo luận về nó (tức là trong Logical Investigations, 1900-1901), Husserl vẫn chưa xây dựng rõ ràng triết học của riêng mình với tư cách là triết học siêu việt. Nhưng trong chừng mực triết học siêu việt là một nghiên cứu về những thành tựu chủ quan làm cho tri ​​thức khách quan trở nên khả thể, thì ‘trực giác phạm trù’ lại đã là một khái niệm triết học siêu việt. Sự thay đổi chính trong quan điểm sau này của Husserl là ở chỗ trực giác phạm trù được phân biệt thêm thành các loại bằng chứng khác nhau (ví dụ: tính riêng biệt và tính rõ ràng) mà các khoa học hình thức đưa ra. Nhất là, quan điểm của ông về tính riêng biệt như một bằng chứng liên quan đến một loại lý thuyết không-mâu thuẫn trong FTL là mới lạ. Trong khi trực giác phạm trù được xây dựng trên các cá nhân được nhận thức, bằng chứng về tính riêng biệt nảy sinh trong chính lý thuyết hình thức, mà không có bất kỳ sự so sánh nào với thế giới.10

Vậy là, Husserl nghĩ rằng một khi người ta đã có được điểm nhìn đúng đắn về tính trừu tượng của logic thì rõ ràng là nó phải chịu sự khảo sát siêu việt/tiên nghiệm. Thật vậy, việc hiểu logic hình thức như một nghiên cứu về các cấu trúc đã cho thấy rõ ràng rằng, song song với các vấn đề siêu việt/tiên nghiệm của tự nhiên, nó cũng phải chịu sự chỉ trích: vấn đề siêu việt mà logic khách quan (dù được hiểu theo nghĩa rộng hay hẹp) phải nêu ra liên quan đến phạm vi của các khách tính lý tưởng của nó có một vị trí song hành với các vấn đề siêu việt/tiên nghiệm của các khoa học về thực tại, các vấn đề phải nêu ra dính dáng đến các lĩnh vực thực tại mà các khoa học đó liên quan, và đặc biệt là các vấn đề siêu việt liên quan đến tự nhiên, đã được Hume và Kant xử lý. Do đó, có vẻ như hậu quả trực tiếp của việc đưa ra thế giới của các ý tưởng và đặc biệt (nhờ vào việc thực hiện các xung lực nhận được từ Leibniz, Bolzano và Lotze), thế giới của các ý tưởng mà logic thuần túy quan tâm, phải là một sự mở rộng trực tiếp [tr.15] [sofortige Übertragung] các vấn đề siêu việt/tiên nghiệm vào phạm vi này. (FTL, 271/264). Thậm chí với tất cả những vấn đề mà Husserl tìm thấy ở Kant, ông vẫn nghĩ rằng triết học của Kant đang trên con đường hướng đến triết học siêu việt/tiên nghiệm thực sự, “ở chỗ nó phù hợp với ý nghĩa chung, mang tính hình thức của triết học siêu việt trong định nghĩa của chúng tôi” (Crisis §27). Thật vậy, ông viết rằng, nếu Hume bị loại trừ, thì “hệ thống Kantian là nỗ lực đầu tiên, và là nỗ lực được thực hiện với sự nghiêm ngặt khoa học đầy ấn tượng, nhằm hướng đến một triết học siêu việt thực sự phổ quát...” (Crisis §27). Nhưng, do quan niệm chủ quan của mình về logic và phương pháp “suy luận”, Kant đã dựng lên một triết học bị giới hạn trong “chủ chủ thể luận siêu việt/tiên nghiệm” (Crisis §25). Do đó, mục tiêu của Kant - thiết lập phạm vi và giới hạn của lý trí - đã khiến ông, ví dụ, phân biệt giữa các các hiện khởi [apperances] và vật tự thân, trong khi Husserl lại thấy những cấu thành “siêu hình” như vậy là không có cơ sở.

5. Quan điểm Phê phán Logic của Parsons và Husserl

Charles Parsons (2015) đã giới thiệu thuật ngữ ‘quan điểm phê phán logic’ để mô tả các lập trường đặt vấn đề về cái được cho là tính tự-minh nhiên của logic, đặc biệt là khả tính áp dụng các định luật logic thông thường trong toán học. “Ý tưởng cơ bản của quan điểm này là chúng ta không thể coi các nguyên tắc và suy luận logic quen thuộc là điều hiển nhiên khi làm toán, đặc biệt là khi suy luận của chúng ta liên quan đến cái vô hạn, ngay cả theo cấp độ rất thấp mà vô hạn đi gia nhập suy lý về các số tự nhiên” (2015, 2). Trong khi một người rõ rang là tiên phong về quan điểm này, Brouwer, thì Parsons vẫn cho rằng quan điểm phê phán cũng có thể độc lập tạo dựng trên các cơ sở cấu thành luận. Đối với Parsons, quan điểm này liên quan đến cái mà ông gọi là ‘sự vướng víu của logic và toán học’, ám chỉ cái cách thức mà sự lựa chọn logic của một ai đó thì đều phụ thuộc vào các cam kết toán học của y/thị (Parsons 2015, 13). Quan điểm này là “toán học-trước, triết học-sau” – nó không áp đặt những hạn chế đối với logic vì lý do triết học, mà vì những lý do liên quan đến bản chất của chủ đề.

Để có được quan điểm phê phán về logic, như đã thảo luận ở trên Husserl đưa logic hình thức vào quá trình khảo sát siêu nghiệm. Điều này diễn ra trong logic siêu việt: [tr.16] “Logic phải vượt qua tính ngây thơ hiện tượng học của nó; ngay cả sau khi đã học cách nhận ra điều gì là lý tưởng, logic phải khác với một khoa học chỉ đơn thuần là khoa học thực chứng về các lý tưởng logic-toán học. Thay vào đó, với một nghiên cứu liên tục hai mặt (kết quả ở cả mặt này quyết định các khảo sát ở mặt kia), logic phải quay trở lại một cách có hệ thống từ các hình thái lý tưởng đến ý thức cấu thành chúng về mặt hiện tượng học; nó phải làm cho các hình thái này dễ hiểu, về mặt ý nghĩa và giới hạn của chúng, về bản chất là các sản phẩm của các cấu trúc tương quan của đời sống nhận thức hiệu quả, và do đó nó phải phù hợp với chúng, giống như mọi khách tính khác, với mối liên hệ rộng hơn, cụ thể hơn của chủ thể tính siêu việt. Khách thể tính lý tưởng của các hình thái mà logic quan tâm - giống như thế giới thực - không hề thay đổi trong quá trình này. (FTL, 270/263)

Do đó logic siêu việt xem xét cái cách thức mà logic hình thức liên quan đến ý thức đã cấu thành nên nó. Điều này không có nghĩa là logic hình thức được cấu thành và quan điểm của Husserl là cấu thành luận.11 Thay vào đó, đối với ông, logic hình thức giống như đối với các nhà toán học, nó cũng được tiếp cận từ lập trường “toán học-trước hết”. Nhiệm vụ của triết học siêu việt là hiểu và minh định cái cách thức mà nó được trao cho chúng ta; không phải là ép nó vào bất kỳ hình thức cho sẵn cụ thể nào. Do đó, nó nghiên cứu các loại bằng chứng mà logic được cho sẵn, loại tiền đề nào mà logic dựa vào và cái cách thức mà tất cả những điều này được kết nối để tạo thành một tổng thể hài hòa tối hậu liên quan đến cuộc sống của chúng ta. Điều này có nghĩa là logic hình thức phải được xem xét và minh định theo thái độ hiện tượng học siêu việt. Mặc dù trong Ideas I, Husserl thực hiện sự thay đổi thái độ cần thiết với “epoché”/treo lại và “phép quy giản” hiện tượng luận ít nhiều chỉ bằng một cú ra đòn, nhưng trong FTL, thì cách hành xử của ông lại diễn ra chậm rãi hơn nhiều. Husserl bắt đầu bằng cách xem xét các bằng chứng mà các lớp logic hình thức khác nhau được đưa ra. Sau đó, các bằng chứng này được minh định và tinh lọc để có thể phát hiện ra các bằng chứng chồng chéo và các nhầm lẫn khác tương tự.

Ông viết, “bằng chứng thuộc mọi loại…nên được xem xét, định hình lại, phân tích, tinh lọc và cải thiện bằng cách có suy nghĩ; và sau đó, nó có thể và cần phải được coi là một mô thức mẫu, một chuẩn mực.” (FTL, 184/176). Việc kiểm tra các bằng chứng đưa ra ánh sáng nhiều loại tiền đề được giả định bằng logic hình thức. Ví dụ, đó là [tr.17] tính lý tưởng của các phán đoán, sự lặp lại ‘vân vân’ và các nguyên tắc logic đã đề cập ở trên. Husserl thảo luận về các nguyên tắc logic riêng biệt đối với logic phi mâu thuẫn và đối với logic chân lý; do đó, thảo luận tính hợp thức của chúng liên quan đến các bằng chứng chi phối ngành học đang đề cập. Hơn nữa, trong cả hai trường hợp, các nguyên tắc đều được thảo luận bằng cả các cách công thức hóa khách thể và chủ thể, trong đó loại công thức hóa chủ thể là “một tương quan có bằng chứng hiển nhiên” của loại công thức hóa khách thể. Sau đó, Husserl xem xét các loại bằng chứng được giả định bằng các nguyên tắc ấy. Nếu không có loại kiểm tra này, thì người ta có thể gán cho chúng hang loạt ứng dụng sai lạc: “Do tính trừu tượng hình thức và tính ngây thơ trong tư duy của nhà logic học, những tiền đề chưa từng được công thức hóa như vậy có thể dễ dàng bị bỏ qua; và do đó, thậm chí người ta có thể quy cho các khái niệm và nguyên tắc cơ bản của logic hàng loạt sai lạc. (FTL 207/200)

Do đó, một loại logic phù hợp với quan điểm phê phán logic là một logic phải được minh định về phương diện siêu việt/tiên nghiệm. Đó là bất kỳ loại logic hoặc toán học nào nhận thức đầy đủ về mục đích của chính nó và các loại bằng chứng liên quan đến những mục đích này. Do đó các bằng chứng ấy được minh định và tinh lọc, đếm mức là, chẳng hạn, tính riêng biệt và tính minh định không bị nhầm lẫn với nhau, các khái niệm cơ bản được sử dụng là chính xác và được sử dụng với các lĩnh vực thích hợp của chúng, tương tự như vậy, các nguyên tắc logic được sử dụng phù hợp với các yêu cầu của các bằng chứng khác nhau và chỉ được sử dụng khi được coi là dứt khoát hợp lệ. Đối với Husserl, chỉ có khoa học được xem xét theo cách này mới là khoa học đích thực. Một khoa học như vậy không bị ảnh hưởng bởi nghịch lý: Chân lý là thứ khoa học có nghịch lý, vận hành bằng các khái niệm cơ bản không được tạo ra bởi công trình với sự minh định và phê phán từ nguyên gốc, chứ không hề là thứ khoa học, với tất cả những màn trình diễn khéo léo của chúng, chỉ là những kỹ thuật lý thuyết đơn thuần. (FTL, 189/181)

Đối với Husserl, logic hay toán học không nên chỉ là một trò chơi (mặc dù là vui), mà phải phục vụ cho mục đích được xem xét một cách triệt để với các khái niệm và nguyên lý được minh định với các phạm vi ứng dụng được hiệu chỉnh. Điều này có nghĩa là phải áp dụng “tính cấp tiến của trách nhiệm-tự thân trong khoa học” [Radikalismus wissenschaftlicher Selbstverantwortung] (FTL, 8/4). Quan điểm phê phán logic của Husserl phù hợp với cách diễn đạt của Parsons ở chỗ nó đòi hỏi một sự biện minh mang tính phản ánh về cách sử dụng các nguyên lý và các suy luận logic thân thuộc và [tr.18]. Đối với Husserl, sự khác biệt rõ ràng giữa hai quan điểm này là khả năng áp dụng các nguyên lý logic được xem xét liên quan đến các mục tiêu và bằng chứng được tìm kiếm trong mỗi chuyên ngành. Điều này cho thấy khả năng áp dụng các nguyên lý logic nên được đánh giá theo các tiêu chí định chuẩn chi phối các phương pháp đã chọn (chẳng hạn: liệu các bằng chứng có nên mang tính cấu thành hay không, liệu các định nghĩa có nên mang tính dự báo hay không, v.v.), dẫn đến một cách tiếp cận đa nguyên hơn. Cách tiếp cận này vẫn mang tính sửa đổi, mặc dù ở mức độ vừa phải. Trong đó, các khái niệm và nguyên tắc của nhiều ngành khác nhau có thể được sửa đổi, nhưng sự chỉ trích này diễn ra ở bên trong, chống lại các tiêu chuẩn của từng ngành học. Đối với Parsons, nguồn chỉ trích nằm ở một số sự kiện toán học nhất định (ví dụ, về kích thước các miền). Cách tiếp cận của ông nhấn mạnh vào sự vướng víu của toán học và logic, và theo đó, mức độ phân tích của ông về mặt kỹ thuật tinh vi hơn nhiều so với Husserl. Đối với nền tảng của logic đương đại, sự kết hợp của hai quan điểm này có vẻ hứa hẹn nhất. Theo nghĩa ấy, quan điểm phê phán về logic nên bao gồm sự phản ánh về sự lựa chọn và phạm vi của các tiêu chuẩn chuẩn mực cũng tính đến bản chất của miền đang được đề cập.12

6. Kết luận

Theo quan điểm của Husserl, logic hình thức toàn diện hơn logic tổng quát của Kant. Nó bao gồm tất cả các khoa học hình thức hướng đến các loại bằng chứng khác nhau. Logic của Husserl là về các cấu trúc hình thức, trong khi quan điểm của Kant về logic tổng quát là về các quy luật suy lý. Đây là lý do tại sao Husserl lại tuyên bố rằng quan điểm của Kant về logic tổng quát hướng đến tính chủ thể, trong khi quan điểm của riêng ông về logic lại hướng đến mục tiêu cần thiết để biện minh cho các nguyên tắc chủ thể tính. Điều này cũng tạo nên sự khác biệt liên quan đến vai trò của logic trong triết học phê phán của mỗi triết gia: Trong khi logic tổng quát là điểm khởi đầu và là công cụ trung lập cho nỗ lực phê phán của Kant, thì các khoa học hình thức của Husserl lại chịu sự phản ánh phê phán trong cái mà Husserl gọi là “logic siêu việt/tiên nghiệm”, không phải là cái mà Kant muốn nói đến bằng khái niệm “logic siêu việt/tiên nghiệm”. Do đó, đối với Kant, các phạm trù có [tr.19] cơ sở của chúng trong sự hiểu biết, ngược lại đối với Husserl, tính phạm trù nằm ở ngoài kia trong thế giới hoặc trong lãnh địa của các hình thái lý tưởng. Trong khi Husserl cho rằng Kant không đặt ra được những câu hỏi siêu việt/tiên nghiệm về logic, và do đó không tạo dựng được quan điểm phê phán về logic, thì đối với Husserl, logic phê phán phải được xác định là chủ nghĩa đa nguyên logic được phản ánh siêu việt. Đây là một khoa học hình thức được thực hiện với nhận thức rõ ràng về mục đích của các phương pháp tiếp cận đa dạng và sự cấu thành của các nguyên lý và khái niệm được sử dụng liên quan đến mục đích của lý thuyết hình thức đang đề cập.

_________________________________________

Nguồn: Hartimo M. (2019). Husserl on Kant and the Critical View of Logic, In Interdisciplinary Journal of Philosophy Inquiry.

Notes 

10 Trực giác phạm trù đóng vai trò quan trọng đối với khái niệm chân lý của Husserl được thảo luận trong Logical Investigation (1900-1901). Trực giác phạm trù dựa trên nhận thức giác quan về các đối tượng được đưa ra ngay lập tức để trong đó, ví dụ, một trạng thái của các vấn đề bao gồm cả sự hình thành lý tưởng của các đối tượng, được cấu thành (đặc biệt là LI 6, §§45-48). Triết học siêu việt có thể được xem như một nghiên cứu về cách các giác quan và tính hợp lệ khách quan được cấu thành, tức là, theo cách nào chúng là thành tựu của chủ thể. Do đó, trực giác phạm trù là một thành tựu như vậy, tức là cấu thành của ví dụ, các trạng thái của các vấn đề. Husserl tuyên bố đã khám phá ra “tiền đề tương quan” này, tức là tương quan giữa các khách thể tính (trạng thái của sự việc) và cấu thành của chúng, vào năm 1898: “[c]ái đột phá đầu tiên của tiên nghiệm phổ quát này về tương quan giữa đối tượng được trải nghiệm và cách thức của tính cho sẵn (xuất hiện trong quá trình viết Logical Investigations của tôi vào khoảng năm 1898) đã ảnh hưởng đến tôi sâu sắc đến nỗi toàn bộ công trình sau này của tôi đều bị chi phối bởi nhiệm vụ giải thích một cách có hệ thống về tiên nghiệm tương quan này” (Crisis 166n).

11 Tôi giải thích chi tiết về sự khác biệt giữa cấu thành và cấu trúc trong Hartimo (Sắp xuất bản).

12 Quan điểm của Husserl về logic khác với quan điểm phê phán logic của Sher (2016) ở chỗ bà cố gắng đưa ra nền tảng lý thuyết về logic, trong khi Husserl muốn đưa ra nền tảng siêu việt cho logic, bộc lộ chính các điều kiện khả tính của logic. Cách cả hai cách tiếp cận đều sử dụng khái niệm bất biến gợi ra sự so sánh sâu hơn, tuy nhiên, chúng ta phải để dành cho một dịp khác.

References with abbreviations:

FTL Husserl, Edmund (1974). Formale und transzendentale Logik: Versuch einer Kritik der logischen Vernunft (1929). Husserliana XVII. Ed. P. Janssen. The Hague: Martinus Nijhoff. English translation: Formal and Transcendental Logic, translated by Dorion Cairns. Martinus Nijhoff. The Hague. 1969.

Ideas I Edmund Husserl (1976). Ideen zu einer reinen Phänomenologie und phänomenologischen Philosophie. Erstes Buch: Allgemeine Einführung in die reine Phänomenologie. Husserliana III. Ed.

K. Schuhmann. The Hague: Martinus Nijhoff. English Translation: Ideas pertaining to a pure phenomenology and to a phenomenological philosophy, translated by F. Kersten. Kluwer, Dordrecht, Boston, London.1982.

LI  1-6. Edmund Husserl. Logische Untersuchungen. Zweiter Band. Untersuchungen zur Phänomenologie und Theorie der Erkenntnis. Husserliana XIX, Edited by Ursula Panzer. Martinus Nijhoff. The Hague, 1984. English translation Logical Investigations, translated by J. N. Findlay. Volumes One & Two. Humanities Press. New York, 1970.

Prolegomena Edmund Husserl (1975). Logische Untersuchungen. Erster Band. Prolegomena zur reinen Logik. Husserliana XVIII. Ed. E. Holenstein. The Hague: Martinus Nijhoff. English translation in Logical Investigations, translated by J. N. Findlay. Volume One. Humanities Press. New York, 1970.

Crisis Husserl, Edmund (1976). Die Krisis der europäischen Wissenschaften und die transzendentale Phänomenologie: Eine Einleitung in die phänomenologische Philosophie (1936). Husserliana VI. Ed. W. Biemel. The Hague: Martinus Nijhoff. English translation: The Crisis of European Sciences and Transcendental Phenomenology. An Introduction to Phenomenological Philosophy. Translated by David Carr. Evanston: Northwestern University Press, 1970.

A/B   Kant, Immanuel. (1998). Critique of Pure Reason. Edited and translated by Paul Guyer and Allen W. Wood. New York: Cambridge University Press.

Prol Kant, Immanuel. (1977). Prolegomena to any Future Metaphysics. Translated by Paul Carus, revised by James W. Ellington. Indianapolis/Cambridge: Hackett Publishing Company.

Further references:

Hartimo, Mirja (2018). “Husserl on completeness, definitely.” Synthese 195, 2018: 1509–1527.

Hartimo, Mirja (Forthcoming). “Constitution and Construction” to appear in Weiss, Christina (ed.). Constructive Semantics – Meaning in Between Phenomenology and Constructivism. Logic, Epistemology and the Unity of Science Series. Springer.

Heffernan, George (1989). Isagoge in die phänomenologische Apophantik. Eine Einführung in die phänomenologische Urteilslogik durch die Auslegung des Textes der Formalen und transzendentalen Logik von Edmund Husserl. Dordrecht, Boston, London: Kluwer Academic Publishers.

Hintikka, Jaakko (2003). The Principles of Mathematics Revisited. Cambridge: Cambridge University Press. [1996]

Husserl, Edmund (1956). Erste Philosophie (1923/24). Erster Teil, kritische Ideengeschichte. Husserliana volume VII, edited by Rudolf Boehm. Haag: Martinus Nijhoff.

Parsons, Charles (2012). “Arithmetic and the Categories.” In: From Kant to Husserl. Cambridge, Mass.: Harvard University Press: 42-68.

Parsons, Charles. (2015). “Infinity and a Critical View of Logic.” Inquiry 58/1: 1-19.

Schuhmann, Karl (1977). Husserl-Chronik, Denk- und Lebensweg Edmund Husserls. The Hague: Martinus Nijhoff.

Sher, Gila (2016). Epistemic friction: an essay on knowledge, truth, and logic. Oxford University Press.

 

 

 

 

 

 

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét