Manas Roy
Người dịch: Hà Hữu Nga
Tóm tắt: Trong bài viết này, tôi đã cố gắng xem xét nỗ lực của Husserl nhằm thiết lập nền tảng cho khoa học với cái gọi là quy giản siêu việt/tiên nghiệm thành quy giản ‘quang ảnh’ của ‘epoché’/ tình trạng treo lại. Điều này sẽ đòi hỏi cả việc xác định các vấn đề mà Husserl đang cố gắng giải quyết cũng như phân tích cẩn thận về lý giải ngôn ngữ phương pháp luận của ông.
Từ khóa: Quang Ý thức, quang ngữ đoạn, quang cú pháp, giải hợp déconcert.
Giới thiệu
[Tr.133] Nền móng [grounding] Husserlian có thể biến Ý tưởng của con người thành khoa học thực sự, có phương pháp và hoàn toàn biện minh được. Do đó, Husserl tìm kiếm một khoa học tự đặt nền tảng một cách triệt để như một khoa học tiên nghiệm, sự biện minh và phương pháp của nó sẽ nằm trong nền móng lý tưởng tuyệt đối của nó, nền móng này sẽ giải quyết các vấn đề liên quan đến khủng hoảng nền tảng và nghịch lý logic. Điều này cũng bao gồm các vấn đề của chủ thể luận [subjectivism] – trong việc đặt định cái tiên nghiệm như là nền tảng không thể lay chuyển của hiện tượng học, Husserl đã tìm kiếm một phương pháp để khách thể hóa các khoa học và tìm ra một nền tảng cấp tiến mà trên đó sự chắc chắn và khách thể tính không thể nghi ngờ của các khoa học sẽ được thành lập thông qua phép quy giản siêu việt. Như Husserl đã nói về sự cần thiết của sự quy giản siêu việt/tiên nghiệm: Tâm lý học hiện tượng luận theo cách này chắc chắn phải được thiết lập như một ‘hiện tượng luận thị niệm’ [‘eidetic phenomenology’]; sau đó nó được độc quyền định hướng đến các hình thức thiết yếu bất biến. Ví dụ, hiện tượng học nhận thức về các cơ thể sẽ không (đơn giản) là một báo cáo về các nhận thức thực tế xảy ra hoặc những nhận thức được mong đợi; đúng hơn, nó sẽ là việc trình hiện các hệ thống cấu trúc bất biến mà nếu không có chúng, thì nhận thức về một cơ thể và tính đa dạng nhất quán tổng hợp của các nhận thức về một và cùng một cơ thể theo đúng nghĩa sẽ là điều không thể tưởng tượng được. Nếu phép quy giản hiện tượng học tạo ra một phương tiện để tiếp cận hiện tượng của trải nghiệm nội tại thực tế và tiềm năng, thì phương pháp được xây dựng trong đó của ‘phép quy giản thị niệm’ [eidetic reduction] sẽ cung cấp phương tiện để tiếp cận các cấu trúc thiết yếu bất biến của toàn bộ phạm vi quá trình tinh thần thuần túy.
Phép quy giản siêu việt/tiên nghiệm là một phương pháp giúp đạt đến tính chắc chắn hiển nhiên – đế các bản chất tạo thành các điều kiện tiên nghiệm là nền tảng của hiện tượng học kinh nghiệm. Hiện tượng học là hiện tượng học eidetic thị niệm - nó tìm cách đạt đến nền tảng tạo sinh của tư duy, như Husserl nói - chuyển hiện tượng học từ tĩnh tại sang tạo sinh - khi đạt đến các hình thức tinh túy, bất biến, thuần túy giúp tổng hợp các nhận thức thành các đơn vị thống nhất mạch lạc và nếu không có chúng thì nhận thức sẽ không thể khả thi. Husserl đã tìm cách, thông qua phép quy giản eidetic thị niệm, để đạt đến các cấu trúc thiết yếu của quá trình tinh thần thuần túy; theo nghĩa này, [tr.134] phép quy giản siêu việt/tiên nghiệm là một quá trình thanh lọc của việc đặt trong ngoặc [bracketing] mọi thứ ngẫu nhiên, kinh nghiệm và tương đối để đạt đến các nền tảng tuyệt đối và tiên nghiệm giúp cấu trúc nên các quá trình tinh thần. Bài viết này tìm cách xem xét các điều kiện khả tính để thiết lập nền tảng tuyệt đối của xác tính [certainty] của Husserl trong việc định chế hóa tiên nghiệm [a priori formulation] của ông bằng cách chuyển từ việc thiết lập nhu cầu về phép quy giản siêu việt/tiên nghiệm, mà chúng ta vừa thấy là hệ quả nỗ lực của Husserl nhằm các lập cơ sở khoa học bằng một nền tảng tuyệt đối, không thể lay chuyển; và sau đó xem xét cách diễn giải của Derrida về các điều kiện để đạt được xác tính hiển nhiên thông qua điều kiện cơ bản khả tính của nó—dấu vết [trace] và sự khác biệt [difference].
1. ‘Epoché’ Treo lại hiện tượng học
Tuy nhiên, có thể xem xét việc tái cấu trúc hợp lý lý thuyết về nội dung của Edmund Husserl với các ràng buộc về phương pháp luận do epoché treo lại hiện tượng học đặt ra, — cùng với phương pháp động và phép quy giản thị niệm — xây dựng nên cốt lõi thiết yếu của phương pháp siêu việt-hiện tượng học được giới thiệu trong Ideas. Husserl đã phát triển phương pháp epoché treo lại hoặc “đặt trong ngoặc” vào khoảng năm 1906. Có thể coi đây là phép triệt để hóa ràng buộc về phương pháp luận, vốn đã được tìm thấy trong Logical Investigations Khảo sát Logic, cho rằng bất kỳ mô tả hiện tượng học thích hợp nào cũng phải được thực hiện từ góc nhìn của ngôi thứ nhất, để đảm bảo rằng hạng mục tương ứng được mô tả chính xác hệt như chủ thể đã trải nghiệm hoặc có ý hướng. Giờ đây, từ góc nhìn của ngôi thứ nhất, tất nhiên, người ta không thể quyết định xem liệu trong trường hợp được cho là, chẳng hạn, một hành động nhận thức mà ai đó hiện đang thực hiện, thì thực sự có một khách thể mà người ta đang đối mặt về mặt nhận thức hay không. Và không có sự khác biệt nào được tạo ra giữa trường hợp xác thực và không xác thực — vì lý do đơn giản là người ta không thể cùng lúc tái tạo nhiều hơn một lần “bỏ trong ngoặc” hoặc phép quy giản eidetic thị niệm mà chỉ có thể giải cấu trúc toàn bộ đặc điểm của chúng theo hướng tái cấu trúc phổ quát một cấu trúc quang-hiện tượng học [photo-phenomenological] thông qua phối hợp [concertment] của các cấu thành giải cấu trúc của chúng. Trong trường hợp không xác thực [non-veridical], thì một khách thể siêu việt/tiên nghiệm dường như “tự cấu thành” trong ý thức. Chính vì những lý do như vậy mà Husserl yêu cầu rằng trong một mô tả hiện tượng học đúng nghĩa, thì sự tồn tại của [các] khách thể (nếu có) thỏa mãn nội dung của hành động mang tính ý hướng được mô tả phải được “đặt trong ngoặc”. Nghĩa là, mô tả hiện tượng học về một hành động nhất định và đặc biệt là sự chỉ định hiện tượng học về nội dung mang tính ý hướng của nó, không được dựa vào tính đúng đắn của bất kỳ giả định tồn tại nào liên quan đến các đối tượng (nếu có) mà hành động tương ứng đó hướng đến. Do đó, tình trạng epoché treo lại này khiến chúng ta tập trung vào những khía cạnh của các hành động mang tính ý hướng của chúng ta và nội dung của chúng không phụ thuộc vào sự tồn tại của một khách thể được trình hiện ở ngoài kia trong thế giới ngoại-tâm trí [extra-mental world].
[P.135] Theo tôi, ‘epoché’ treo lại của Husserl có thể được giải thích là một loại ‘trầm tích’ hoặc phần/bộ phận được ‘phản ánh’ của một ‘Quy giản Hiện tượng học’. Vậy là, để nhận ra ‘epoché’ treo lại thực sự là gì? thì trước tiên chúng ta phải hiểu — ‘Quy giản hiện tượng học’ là gì? Chúng ta có thể trả lời là – ‘Quy giản hiện tượng học’ là một loại tổng hợp-phân tích của một khách thể bên ngoài lên ý thức con người. Khách thể đang được xem xét trong khi được chủ thể (Tôi) nhận thức, ánh sáng từ khách thể nói trên chiếu vào ý thức và tạo ra một hình ảnh ý thức con người. Đó là ‘Noema’, như Husserl nói. [Từ noema, số nhiều noemata, bắt nguồn từ từ tiếng Hy Lạp νόημα có nghĩa là “khách thể tinh thần”. Nhà triết học Edmund Husserl đã sử dụng noema như một thuật ngữ kỹ thuật trong hiện tượng học để chỉ đối tượng hoặc nội dung của một suy nghĩ, phán đoán hoặc nhận thức, nhưng ý nghĩa chính xác của nó trong tác phẩm của ông vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. HHN] Một lần nữa, ý thức của con người về bản chất là không hoạt động và không hiệu quả cho đến khi & trừ khi ‘Tâm trí’ [Mind] phản ánh về nó (Noema). Sau khi tâm trí con người phản ánh về ‘Noema’, chúng ta có được sự quy giản thứ hai của khách thể nói trên như là một ‘Ý tưởng’ hoặc các ‘Hình thức của Ý tưởng’. Đây là ‘Noesis’, như Husserl nói. [Noesis νόησις “khái niệm”, “ý tưởng”, “trí thông minh”, “sự hiểu biết”, từ νοεῖν noeîn, “có ý định”, “nhận thức”, “nhìn thấy”, “hiểu”, từ νοῦς noûs, “tâm trí”, “suy nghĩ”, từ νόος nóos + -σις -sis, hậu tố tạo thành danh từ chỉ hành động. Là một thuật ngữ triết học, ám chỉ hoạt động của trí tuệ hoặc nous. Noetic là tính từ có liên quan. Noesis (hiện tượng học), thuật ngữ kỹ thuật trong truyền thống “triết học về tính ý hướng” của Brentano–Husserl. Noesis (chủ nghĩa Platon), cấp độ cao nhất trong phép loại suy về đường phân chia được Socrates và Glaucon thảo luận, được Plato chép lại trong tác phẩm Cộng hòa của mình, Noetics, một nhánh ngoài lề của parapsychology liên quan đến việc nghiên cứu tâm trí. HHN] Ở giai đoạn này, ý thức chủ động của con người cố gắng quên đi khách thể bên ngoài gốc rễ và bận rộn phân tích ‘Noesis’ đã nói ở trên.
Ở đây, toàn bộ quá trình phân tích ‘Noesis’ trở thành ‘có tính ý hướng’. ‘Tâm trí’ càng tập trung chuyên sâu vào ý thức, thì sự siêu việt của khách thể theo epoché sẽ càng ‘Tổng hợp’. Ở giai đoạn này, “Nội tại hóa Không gian Ngoại tại” (khách thể) sẽ trở thành ‘Quang ảnh’ mới về thế giới được khái niệm hóa theo ý thức: như nó trình hiện với tôi. Ở đây, toàn bộ khách thể bên ngoài trở thành một loại cảm giác/xúc cảm về “mối quan hệ không gian-thời gian-nhân quả”; và cuối cùng được quy giản thành một “ý thức quang ảnh” thuần túy, được tổng hợp/nhân văn hóa của khách thể gốc. Và đây là ‘epoché’ treo lại của Husserl hoặc ‘Quang ảnh’ đối với tôi. Nó [quang ảnh] không chỉ được “đóng ngoặc” mà đối với tôi, nó còn là một phần/bộ phận được “đóng ngoặc-phản ánh” của ý thức. Các nhà hiện tượng học hiện sinh đã nghiêm ngặt tuân theo những hàm ý của học thuyết về tính ý hướng của ý thức. Vì ý thức luôn là ý thức về ‘quang ảnh’ của thế giới (Manas, 2010) hay đúng hơn là ‘ý thức quang ảnh’ về thế giới dưới ý thức. Và thế giới không chỉ là tương quan của ý thức mà còn là thứ mà nếu không có nó thì sẽ không có ý thức. Do đó, ‘epoché’ là quang ảnh “được phản chiếu-trong ngoặc” của ‘khách thể’ dưới ý thức; hoặc nó có thể được giải thích là “ý thức quang ảnh” của ‘khách thể’ dưới ý thức. Và sự tồn tại của con người chúng ta cũng vậy, trong những sắc thái nội tại trực tiếp nhất của nó, sẽ tự bộc lộ nếu chúng ta có tai để nghe. Theo những cách thức có lẽ đã rõ ràng đối với người đọc, chủ nghĩa hiện sinh và hiện tượng học có thể hỗ trợ cho nhau khá tốt. Với Heidegger, hiện tượng học, với tư cách là nghiên cứu về các hành vi tinh thần (noesis) và các tương quan (noemata) có tính ý hướng của chúng, trở nên có cơ sở trong phân tích hữu thể luận của ông về Dasein (loại hiện hữu người - the human kind of being) như một “hiện-hữu-trong-thế-giới” với tư cách là “tồn tại quang ảnh-ý thức” [photoconscious existence] và “ngôn ngữ người” với tư cách là “tồn tại quang ảnh cú pháp học”, như chúng trình hiện với tôi (Manas, 2010).
Trong “Quang ảnh-tổng hợp” - cơ chế cụ thể, nơi chốn tuyệt vời làm sao! Lá cây chuẩn bị & tiếp nhận chất liệu/thức ăn của chúng thông qua ánh sáng mặt trời và tôi thấy điều này giống như trong toàn bộ các loại Văn liệu, trong khi chúng chuẩn bị & tiếp nhận chất liệu/thức ăn chủ quan của chúng dưới dạng các ý tưởng nghĩa đen mới, chỉ thông qua cơ chế ‘epoché’ treo lại Husserlian [tr.136] vĩnh cửu này. Và đối với tôi, nó có thể được gọi là “cơ chế-quang ảnh”. “Cơ chế quang ảnh” là một loại động lực của ‘epoché’ chứ không phải là “Động lực Quang ảnh”. Tuy nhiên, khi xem xét kỹ hơn, Husserl thực sự dựa vào hai phiên bản khác nhau của ‘epoché’ trong Ideas, mà ông không phân tách rõ ràng các phiên bản này như người ta mong đợi: một mặt là “epoché phổ quát”, và mặt khác là “epoché cục bộ” yếu hơn nhiều (như người ta có thể gắn nhãn cho nó). Phiên bản “epoché phổ quát” đòi hỏi nhà hiện tượng học phải lập tức đặt tất cả các giả định về sự tồn tại của mình liên quan đến thế giới ngoại tại vào trong ngoặc, trong khi phiên bản “epoché cục bộ” chỉ yêu cầu bỏ vào ngoặc các giả định về sự tồn tại cụ thể, tùy thuộc vào “hướng dẫn siêu việt (Leitfaden)” tương ứng, tức là vấn đề cần được minh định về mặt hiện tượng học. Điều này cho phép nhà hiện tượng học nêu rõ lý do của mình cho các giả định về sự tồn tại trong ngoặc, hoặc cho các giả định dựa trên chúng, chẳng hạn như, tiền đề cho rằng một sinh vật nhất định là một chủ thể đang trải qua một trải nghiệm như thế như thế. Chỉ có epoché treo lại phổ quát dường như xung đột với cách đọc ngoại tại luận của chúng ta: nếu không có bất kỳ giả định nào về sự tồn tại ngoài-tinh thần được thừa nhận, thì về mặt hiện tượng học không thể có nội dung mang tính ý hướng phụ thuộc-khách thể, như ngoại tại luận muốn có. Ngược lại, có thể có một số nội dung như vậy, thậm chí nhiều nội dung trong số đó, mà không có nội dung tính ý hướng nói chung phải phụ thuộc vào một khách thể ngoại tại cụ thể. Bây giờ chức năng duy nhất của epoché treo lại phổ quát là thiết lập luận đề tồn dư, cho rằng lĩnh vực ý thức (kinh nghiệm) là “tuyệt đối” ở chỗ nó không phụ thuộc vào sự tồn tại của một thế giới không gian-thời gian bên ngoài (Ideas: mục 51,55). Nhưng lập luận của Husserl cho luận đề này đã thất bại: nó không hợp lệ (Bayer, 2000: 137-140). Do đó, epoché phổ quát không phục vụ cho việc thiết lập những gì nó được thiết kế riêng để chỉ ra, cụ thể là luận đề tồn dư. Vì vậy, chúng ta có thể bỏ qua nó, bám vào cách đọc ngoại tại luận của mình và tập trung vào những gì mà phương pháp epoché cục bộ cho phép Husserl đạt được.
2. Sự chuyển đổi
Trong phần này, tôi đã cố gắng xem xét nỗ lực của Husserl nhằm thiết lập nền tảng cho khoa học với cái gọi là phép quy giản siêu việt/tiên nghiệm hướng tới khái niệm mới được thiết lập: “quang ảnh” (Manas, 2010). Điều này sẽ đòi hỏi cả việc xác định các vấn đề mà Husserl đang cố gắng giải quyết cũng như phân tích cẩn thận lý giải của Husserl về phương pháp luận của ông. Tôi đã cố gắng xem xét điều này bằng “Photo Dynamics” Động thái học Quang ảnh để xem cách đọc của Derrida, khẳng định dự án hiện tượng học ở nhiều khía cạnh thiết yếu của nó, bắt đầu báo hiệu một sự bất đồng tinh tế nhưng cuối cùng là triệt để. Sự bất đồng này có thể có những hàm ý lâu dài đối với hiểu biết của chúng ta về các khả tính được chỉ định bởi phương pháp siêu việt trong tư duy của Husserl.
[P.137] Husserl, khi cố gắng ‘bỏ ngoặc’ thế giới tự nhiên thông qua phép quy giản siêu việt/tiên nghiệm của mình, đã tìm kiếm một nền tảng tuyệt đối để đặt cơ sở cho khoa học. Cơ sở tiên nghiệm này sẽ thiết lập khoa học trên một nền tảng vững chắc và không thể lay chuyển, sau đó giải quyết mọi cuộc khủng hoảng về nền tảng trong khoa học châu Âu. Việc Husserl đưa ra cơ sở tiên nghiệm [a priori ground] này là giải pháp của ông cho tương đối luận bằng cách đặt nền tảng khoa học vào một cơ sở vững chắc. Husserl tìm cách vượt qua thuyết tâm lý học và tương đối luận thông qua việc thiết lập một nền tảng tiên nghiệm và tuyệt đối cho khoa học. Như Husserl đã nói về việc thiết lập một nền tảng tiên nghiệm cho khoa học: Điều này ngụ ý rằng thông qua việc thiết lập nền tảng tiên nghiệm, phương pháp chủ thể tính của việc thiết lập này tự nó trở nên minh bạch, và đối với các ngành học tiên nghiệm được thành lập trong hiện tượng học (ví dụ như khoa học toán học), không thể có ‘nghịch lý’ và ‘khủng hoảng nền tảng’. Hệ quả phát sinh (từ tất cả những điều này) liên quan đến các khoa học tiên nghiệm đã ra đời trong lịch sử và trong tính ngây thơ siêu việt là ở chỗ chỉ có một khoa học cấp tiến, hiện tượng học hoặc hiện tượng học-quang ảnh [photophenomenological].
Nền tảng Husserlian có thể biến các Ý tưởng của con người thành khoa học thực sự, có phương pháp và hoàn toàn được biện minh. Do đó Husserl tìm kiếm một khoa học tự đặt nền tảng cơ bản là một khoa học tiên nghiệm, việc biện minh và phương pháp của nó sẽ nằm trong nền tảng lý tưởng tuyệt đối của nó, bản thân nó sẽ giải quyết các vấn đề liên quan đến khủng hoảng nền tảng và nghịch lý logic. Điều này cũng bao gồm các vấn đề của chủ thể luận - khi đưa ra cái tiên nghiệm như là nền tảng không thể lay chuyển của hiện tượng học, Husserl đã tìm kiếm một phương pháp để khách thể hóa các khoa học và tìm ra một nền tảng cơ bản mà trên đó xác tính và khách tính không thể nghi ngờ của các khoa học sẽ được xây dựng thông qua phép quy giản siêu việt. Như Husserl đã nói về sự cần thiết của phép quy giản siêu việt: Tâm lý học hiện tượng học theo cách này chắc chắn phải được thiết lập như một eidetic phenomenology “hiện tượng học thị niệm”; vậy là nó độc quyền định hướng đến các hình thức thiết yếu bất biến. Ví dụ, hiện tượng học nhận thức về các vật thể [bodies] sẽ không chỉ đơn thuần là một báo cáo về các nhận thức thực tế xảy ra hoặc những nhận thức được mong đợi; mà đúng hơn, nó sẽ là sự trình hiện các hệ thống cấu trúc bất biến mà nếu không có chúng, thì nhận thức về một vật thể và tính đa dạng nhất quán tổng hợp của các nhận thức về một và cùng một vật thể như vậy sẽ là điều không thể tưởng tượng được.
Nếu phép quy giản hiện tượng học tạo ra một phương tiện để tiếp cận hiện tượng trải nghiệm nội tại thực tiễn và tiềm năng, thì phương pháp được xây dựng trên cơ sở đó của “phép quy giản thị niệm” sẽ cung cấp phương tiện để tiếp cận các cấu trúc thiết yếu bất biến toàn bộ phạm vi của quá trình tinh thần thuần túy. Phép quy giản siêu việt là một phương pháp, nếu được hiểu theo “cơ chế quang ảnh” thì người ta có thể đạt đến xác tính hiển nhiên - đến các bản chất tạo thành các điều kiện tiên nghiệm làm chỗ dựa cho hiện tượng học kinh nghiệm. Hiện tượng học là hiện tượng học thị niệm [eidetic phenomenology] - nó tìm cách đạt đến nền tảng tạo sinh của tư duy, như Husserl đã nói - chuyển hiện tượng học từ tĩnh tại sang tạo sinh - khi đạt đến các hình thức tinh túy, bất biến, thuần túy tổng hợp các nhận thức [tr.138] thành các đơn vị thống nhất mạch lạc và nếu không có chúng thì nhận thức sẽ là không thể. Thông qua phép quy giản thị niệm, Husserl đã tìm cách đạt đến các cấu trúc thiết yếu của quá trình tinh thần thuần túy; theo nghĩa này, phép quy giản siêu việt là một quá trình tinh lọc của việc bỏ trong ngoặc mọi cơ sở ngẫu nhiên, kinh nghiệm và tương đối để đạt đến các nền tảng tuyệt đối và tiên nghiệm, là cái cấu trúc nên các quá trình tinh thần. Bài viết này tìm cách xem xét các điều kiện khả tính để thiết lập nền tảng tuyệt đối của xác tính Husserl trong công thức tiên nghiệm của nó bằng cách chuyển từ việc thiết lập nhu cầu cho phép quy giản siêu việt với sự trợ giúp của khái niệm “photo-quang ảnh”, mà chúng ta vừa thấy là hệ quả nỗ lực của Husserl nhằm đặt cơ sở khoa học vào một nền tảng tuyệt đối và không thể lay chuyển; và sau đó xem xét diễn giải của Derrida về các điều kiện để đạt đến xác tính hiển nhiên thông qua điều kiện nền tảng khả tính của nó—dấu vết [trace] và khác biệt [difference].
3. Cách diễn giải về cái Tuyệt đối của Derrida
Theo cách hiểu của Derrida, cái Tuyệt đối được cấu thành bởi sự lặp lại và tái trình [representation] hiện chứ không phải trình hiện [presentation], vốn chưa từng tồn tại ngay từ đầu. Cái Tuyệt đối này là điểm khởi nguồn tạo nên sự hiện diện trong các diễn ngôn lấy ý niệm làm trung tâm [logocentric]. [Logocentrism - ngôn trí trung tâm luận - là một khái niệm coi “logos” là nền tảng của kiến thức và chân lý. Trong triết học của Jacques Derrida, ngôn trí trung tâm luận ám chỉ niềm tin truyền thống của phương Tây cho rằng lời nói và lý trí vượt trội hơn chữ viết, một ý nghĩa hoặc thực tiễn “chân thực” tồn tại trước và độc lập với ngôn ngữ. Derrida thách thức quan điểm này bằng cách lập luận rằng ý nghĩa luôn bị trì hoãn và được tạo ra thông qua sự khác biệt trong ngôn ngữ, một khái niệm mà ông gọi là différance. HHNG] Cái Tuyệt đối phải được tái-kích hoạt qua thời gian và lịch sử bằng cách lặp lại cái noema “khách thể tinh thần” và sự lặp lại của hiện diện trong sự vắng mặt, tồn tại trong không tồn tại [being in non-being]; điều đó phân đôi cái a priori tiên nghiệm. Cái Tuyệt đối này luôn bị trì hoãn và chậm lại, về mặt không gian và thời gian, được truyền đạt cho chúng ta thông qua sự chuyển đổi của différance. Ví dụ, Derrida nêu trong Giới thiệu về Nguồn gốc của Hình học cho rằng: Ở đây, ngược lại, cái ở đây và bây giờ của ‘lần đầu tiên’ là mang tính thể chế và sáng tạo. [Trong triết học của Jacques Derrida, institutive meaning “ý nghĩa thể chế” ám chỉ ý tưởng rằng ý nghĩa không cố định hoặc vốn có trong một sự vật hay khái niệm vốn được tạo ra và duy trì bởi các hệ thống và cấu trúc ngôn ngữ và văn hóa mà chúng ta sử dụng để hiểu nó. Derrida lập luận rằng ý nghĩa liên tục bị trì hoãn và định hình bởi mối quan hệ của nó với các khái niệm và từ ngữ khác, tạo ra một mạng lưới ý nghĩa năng động và không ngừng phát triển. HHNG] Liệu có phải trải nghiệm này, độc đáo về loại hình của nó, lại không phải là một sự kiện đơn nhất - một sự kiện mà chúng ta không thể thay thế bằng một sự kiện khác làm ví dụ để giải mã bản chất của nó? Có phải điều này muốn nói rằng tính bất khả tách rời giữa hiện thực và ý nghĩa trong nhất tính [oneness] của một hành động tạo thể chế ngăn cản hiện tượng học tiếp cận toàn bộ lịch sử và cái eidos [thị niệm] thuần túy của nguồn gốc vĩnh viễn đã bị đắm chìm? Bản thân tính bất khả tách rời có một ý nghĩa hiện tượng học có thể xác định được một cách chặt chẽ. Biến thể tưởng tượng của hiện tượng học tĩnh chỉ đơn giản là giả định một loại quy giản mà phong cách của nó sẽ phải được đổi mới bằng một hiện tượng học lịch sử.
Khía cạnh eidetic thị niệm của phép quy giản này là sự lặp lại của một noema khách thể tinh thần: vì eidos thị niệm được cấu thành và mang tính khách thể, nên chuỗi hành động có tính ý hướng đó không thể không khôi phục vô thời hạn cái đồng nhất lý tưởng của ý nghĩa vốn không bị che khuất bởi bất kỳ tính mờ đục lịch sử nào, và đó chỉ là vấn đề minh định, cô lập và xác định bằng chứng, tính bất biến và tính độc lập khách quan của nó. Phép quy giản lịch sử, cũng được vận hành theo sự biến đổi, sẽ được kích hoạt lại và có tính noetic khách thể tinh thần. Thay vì lặp lại ý nghĩa đã được cấu thành của một đối tượng lý tưởng, người ta sẽ phải đánh thức lại sự phụ thuộc của ý nghĩa liên quan đến một hành động khai trương và mang tính thể chế ẩn dưới các thụ động tính thứ cấp và các trầm tích lắng đọng vô hạn—một hành động nguyên thủy [tr.139] đã tạo ra khách thể mà eidos cái thị niệm của nó được xác định bởi phép quy giản lặp đi lặp lại. Ở đây một lần nữa chúng ta sẽ thấy rằng không có câu trả lời đơn giản nào cho câu hỏi về mức độ ưu tiên của một phép quy giản này so với phép quy giản khác. Derrida chỉ ra rằng mối quan hệ giữa phép quy giản eidetic thị niệm và nguồn gốc tuyệt đối là mối quan hệ lặp lại— phép quy giản là sự lặp lại của noema “khách thể tinh thần, nó đánh thức lại sự phụ thuộc của ý nghĩa đối với hành động thể chế và sáng tạo của cái nguồn gốc tuyệt đối, không hề bị đắm chìm và biến mất, mà được tái kích hoạt bằng phép quy giản thông qua sự lặp lại với sự khác biệt trong hiện tại; do đó, giải-cặn lắng cái nguồn gốc ẩn giấu của quá khứ và tái kích hoạt nó trong hiện tại và tương lai. Nguồn gốc cái Tuyệt đối của quá khứ lần đầu tiên được các nhà hình học đầu tiên thiết lập một cách sáng tạo, do đó được tái kích hoạt bằng phép quy giản thông qua sự lặp lại của noema khách thể tinh thần, hoặc sự lặp lại của cái Tuyệt đối với một khác biệt trong hiện tại.
Nguồn gốc này chỉ được tạo ra bằng hồi tưởng thông qua hành động lặp lại, báo hiệu cho một sự hiện diện chưa từng tồn tại. Hành vi lặp lại tạo ra sự phân chia tiếp theo thành siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm báo hiệu mang tính hồi tưởng cho một hiện diện hẳn đã tồn tại nhưng chưa từng tồn tại thông qua chuyển động phân biệt của cái dấu vết [the trace]. Do đó, cái Tuyệt đối, hoặc huyền thoại của nó, được cấu thành bởi sự lặp lại tái kích hoạt này của noema khách thể tinh thần, hoặc sự lặp lại với một khác biệt trong hiện tại và tương lai thông qua phép quy giản. Derrida còn tuyên bố rằng: Tính bất khả thi của việc nghỉ ngơi trong sự duy trì đơn giản (tính bây giờ nowness) của một Hiện tại Sống động [Living Present], nguồn gốc duy nhất và tuyệt đối tuyệt đối của De Facto/Thực quyền và De Jure/Chủ quyền, của Hữu thể và Ý nghĩa, nhưng luôn khác biệt trong tính đồng nhất-tự thân của nó: cái bất khả thi để sống trong tính không chia cắt ngây thơ (indivision không chia cắt) của cái Tuyệt đối nguyên thủy, bởi vì cái Tuyệt đối chỉ hiện hữu trong trạng thái bị trì hoãn-chậm lại (khác biệt) mà không có sự trì hoãn, sự bất lực này và tính bất khả thi này được đưa ra trong một ý thức nguyên thủy và thuần túy về sự Khác biệt. Một ý thức như vậy, với phong cách nhất tính kỳ lạ của nó, phải được khôi phục lại ánh sáng của chính nó. Nếu không có một ý thức như vậy, nếu không có sự bừng nở thích hợp của chính nó, thì sẽ không có gì xuất hiện.
Khác biệt nguyên thủy của Nguồn gốc tuyệt đối, vốn có thể và vô thời hạn phải vừa giữ lại vừa tuyên bố hình thức cụ thể thuần túy của nó với sự đảm bảo tiên nghiệm, tức là bên kia hoặc bên-này mang lại ý nghĩa cho mọi thiên tài kinh nghiệm và sự dư thừa thực sự, có lẽ đó là điều luôn được nói bằng khái niệm ‘siêu việt’/tiên nghiệm thông qua lịch sử bí ẩn của sự dịch chuyển của nó. Sự khác biệt sẽ là siêu việt. Tình trạng bồn chồn thuần túy và vô tận của tư tưởng cố gắng ‘quy giản’ Khác biệt bằng cách vượt ra ngoài vô hạn thực tế hướng tới tình trạng bồn chồn sẽ là siêu việt. Và sự chắc chắn thuần túy của Tư tưởng sẽ là siêu việt, vì nó chỉ có thể mong đợi Telos Mục đích Tối hậu đã được công bố bằng cách thúc đẩy (hoặc hiện hữu trước) Nguồn gốc tự bảo lưu vô thời hạn. Một xác tính như vậy không bao giờ phải hiểu rằng Tư tưởng sẽ luôn xuất hiện. Cuộc diễu hành kỳ lạ của một ‘Ruckfrage’ Yêu cầu làm rõ là chuyển động được phác họa trong Nguồn gốc của Hình học, qua đó tác phẩm viết này cũng nắm giữ, như Husserl nói, một ‘ý nghĩa mẫu mực.’
[Tr.140] Derrida thảo luận về các điều kiện khả tính của cái Tuyệt đối—nó luôn được chuyển tiếp về mặt không gian và thời gian thông qua sự chuyển tiếp của différance, bị hoãn lại và chậm lại để được truyền đạt. Như Derrida đã nói trước đó, cái Tuyệt đối là sự chuyển tiếp—cái Tuyệt đối được tái kích hoạt thông qua sự lặp lại của noema khách thể tinh thần, của cái mà Derrida gọi là chuyển động và cuộc diễu hành của ‘Ruckfrage’ Yêu cầu làm rõ. Chính khả tính lặp lại của noema và sự tái kích hoạt của nguồn gốc Tuyệt đối đảm bảo sự truyền tải của nó qua thời gian và lịch sử từ quá khứ đến tương lai, như Derrida đã nói ‘Tư tưởng sẽ luôn xuất hiện’. Do đó, cái Tuyệt đối không bao giờ hiện diện với chính nó hoặc không bị chia cắt trong Hiện tại Sống động, nó luôn bị trì hoãn, và do đó Hiện tại Sống động luôn đồng tồn tại với quá khứ và tương lai, hoặc cái không-phải-bây giờ. Do đó, hiện diện được liên kết với không-hiện diện trong các hình thức của quá khứ và tương lai để được duy trì; cái Tuyệt đối được cấu thành thông qua sự lặp lại và trì hoãn của nó qua không gian và thời gian để được truyền đạt.
Như Derrida nói, tư tưởng thuần túy luôn bị trì hoãn. Do đó, nguồn gốc cái Tuyệt đối, hoặc huyền thoại của nó, phải được tái kích hoạt thông qua sự lặp lại của nó và được truyền tải thông qua sự chuyển đổi của différance để tự duy trì chính nó qua không gian và thời gian. Sự lặp lại tạo ra nguồn gốc cái Tuyệt đối bằng cách hồi tưởng thông qua sự phân chia thành siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm, tái tạo một hiện diện chưa bao giờ có ở đó. Do đó cái Tuyệt đối, hoặc cái siêu việt/tiên nghiệm, thực sự là différance, hoặc sự trì hoãn và tính trì hoãn trong quá trình chuyển đổi của nó qua thời gian và lịch sử để được duy trì từ quá khứ đến tương lai. Cái Tuyệt đối luôn khác biệt với chính nó trong sự lặp lại của nó với một sự khác biệt hoặc différance, nếu không có sự khác biệt hoặc sự trì hoãn này qua không gian và thời gian, thì sẽ không có gì xuất hiện với ý thức.
____________________________________
(Còn nữa…)
Nguồn: Roy Manas (2010). Transforming of Husserlian Phenomenology, Filosofía UIS, Volumen 9, Número 1, Enero - junio de 2010, pp. 131 – 157.
References
Husserl, E. (1931). Ideas: General Introduction to Pure Phenomenology. Translated by- Gibson, New York: MacMillan Co.
Kolakowski, Leszek (1987). Husserl and the Search for Certitude, University of Chicago Press.
Kolakowski, Leszek (2004). For What Tomorrow. A Dialogue with Elisabeth Roudinesco. Stanford University Press 2004.
Hubert L. Dreyfus & Paul Rabinow (1983). Michel Foucault: Beyond Structuralism and Hermeneutics, The University of Chicago, USA: Press.
Hubert L. Dreyfus & Paul Rabinow (1973) Speech and Phenomena, and Other Essays on Husserl’s Theory of Signs. (1973). Trans. by David B. Allison, Evanston: Northwestern University Press.
Stiegler, Bernard. Derrida and Technology: Fidelity at the Limits of Deconstruction and the Prosthesis of Faith, Nacques Derrida and the Humanities, In: Tom Cohen (ed.), (ISBN 0-521-62565-3).
Ströker, Elisabeth (1993). Husserl’s Transcendental Phenomenology, Stanford: Stanford University Press.
Dreyfus, Hubert (ed.) (1982). Husserl, Intentionality, and Cognitive Science, Cambridge, MA: MIT Press.
Dreyfus, Hubert (1982), Noema and Meaning in Husserl, Phenomenology and Philosophical Research, 50: 263-271.
Dreyfus, Hubert (1982), Husserl’s Theory of the Intentionality of Consciousness, in: Dreyfus (ed.) 1982.
Schütz, Alfred (1966). The Problem of Transcendental Intersubjectivity in
Husserl,” In: Collected Papers III, The Hague: Nijhoff.
Norris, Christopher (1982). Deconstruction: Theory and Practice.
Thomas, Michael (2006). The Reception of Derrida: Translation and Transformation.
Eyes of the University: Right to Philosophy 2, trans. Jan Plug (Stanford: Stanford University Press, 2004).
Of Grammatology, trans. Gayatri Chakravorty Spivak: Johns Hopkins University Press (1976)
Lawlor, Leonard (2002). Derrida and Husserl: The Basic Problem of Phenomenology, Indiana: Indiana University Press.
Stephen W. Hawking (1992). A Brief History Of Time. Bantam Press, Transworld Publishers Ltd. Great Britain.
Stephen W. Hawking (1992). The Theory Of Everything. Publisher: Phoenix Books.
Roy, Manas (2008). Derrida’s Philosophical Déconstruction, Transcendent Philosophy Journal, Vol.9, Dec.2008 edition, pp.237-246.
Roy, Manas (2010). Phenomenological Existentialism, Think, Vol.9, Issue 24, pp 51-63, Published by: The Royal Institute of Philosophy; Cambridge University Press, U.K.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét