Manas Roy
Người dịch: Hà Hữu Nga
7. Ngôn trí Trung tâm luận của Husserl
[P.148] Husserl duy trì sự phân biệt chặt chẽ giữa cái siêu việt và kinh nghiệm trong văn bản vốn củng cố hiện tượng học của ông như một thứ chủ nghĩa duy tâm siêu việt, cụ thể là Ý tưởng I. Ví dụ, trong chương mở đầu, ông thiết lập sự tách biệt giữa sự kiện và bản chất, cái thực và cái không thực, và duy trì nguyên tắc của các nguyên tắc trong hiện tượng học của mình, cho rằng mọi trực giác đều là nguồn thẩm quyền cho tri thức, và bất cứ điều gì tự thể hiện trong ‘trực giác’ ở dạng nguyên thủy chỉ đơn giản là được chấp nhận như nó tự thể hiện, mặc dù chỉ trong giới hạn mà nó tự thể hiện. Nói cách khác, Husserl coi trọng trực giác hoặc tính cho sẵn lý tưởng của một khách thể là thực tại của nó. (Động thái này được Derrida đặc ân coi là sự hiện diện như những gì được cho là hoàn toàn thể hiện cho chính nó; do đó, điều này làm cho cái lý tưởng trở nên tuyệt đối). Derrida thảo luận về logocentrism ngôn trí trung tâm luận trong Speech and Phenomena: Theo nghĩa này, trong siêu hình học hiện diện, trong triết học với tư cách là tri thức về sự hiện diện của khách thể, với tư cách là cái hiện-hữu-trước-bản-thân của tri thức trong ý thức, chúng ta tin, khá đơn giản và theo nghĩa đen, vào tri thức tuyệt đối như là sự khép lại nếu không phải là kết cục của lịch sử. Và chúng ta tin rằng một sự khép lại như vậy đã diễn ra.
Lịch sử của hiện hữu với tư cách hiện diện, với tư cách tự hiện diện trong tri thức tuyệt đối, với tư cách ý thức về tự thân trong vô tận tính hay parousia - lịch sử này đã khép lại. Lịch sử của sự hiện diện đã khép lại, vì ‘lịch sử’ chưa bao giờ có ý nghĩa gì khác ngoài Gegenwärtigung sự trình hiện của Hữu thể, sự sản sinh và tập hợp các hiện hữu bằng hiện diện, với tư cách là tri thức và làm chủ [mastery]. Vì tự-hiện diện tuyệt đối trong ý thức là thiên hướng vô hạn của sự hiện diện trọn vẹn, nên việc đạt được tri thức tuyệt đối là chung cục của cái vô hạn, điều này chỉ có thể là nhất tính của khái niệm, logos và ý thức trong một giọng nói không có différance. Do đó, lịch sử siêu hình học có thể được diễn đạt như sự khai mở của cấu trúc hoặc lược đồ của một ý chí tuyệt đối muốn-nghe-bản-thân-nói. Lịch sử này khép lại khi cái tuyệt đối vô hạn này xuất hiện với chính nó với tư cách là cái chết của chính nó. Một giọng nói không có différance, một giọng nói không có chữ viết, vừa tuyệt đối sống lại vừa tuyệt đối chết. Trong đoạn trích trên, Derrida thảo luận về các điều kiện khả tính của logocentrism ngôn trí trung tâm luận với sự khám phá ra différance. Ngôn trí trung tâm luận coi trọng sự hiện diện như là trình hiện khách tính của trực giác hoàn toàn dành cho chính nó, mà Husserl coi trọng trong đời sống tinh thần đơn độc như là các dấu hiệu biểu đạt hơn là chỉ dẫn.
Trực giác với tư cách tuyệt đối, hiện diện, khách tính và dành cho chính nó (với tư cách hiện diện-trình hiện Gegenwärtigung của hiện hữu, tương đương với những gì mà Derrida đặt định là logocentrism - ngôn trí trung tâm luận của Husserl. Sự khép lại của siêu hình học và chung cục của lịch sử-siêu hình học như một thứ chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối không thừa nhận différance, hay sự khác biệt giữa siêu việt và kinh nghiệm, cấu thành siêu hình học - trở thành cái mà Derrida muốn cứu hiện tượng học thoát khỏi bằng hậu-hiện tượng học và cận-siêu việt quasi-transcendental của ông. Derrida chỉ ra rằng cái dấu vết và cái chết nằm ở trung tâm của hiện diện và là hiện thân điều kiện khả tính của nó. Différance chuyển thành sự ô nhiễm của cái siêu việt và kinh nghiệm, hay sự tương tác giữa chúng trong vận động tái tạo của khả tính lặp lại. Différance [tr.149] duy trì ảo tưởng cho rằng cái siêu việt và kinh nghiệm là tách biệt khi nghịch lý thay, một sự khác biệt hư không, phân tách hư không vì cái siêu việt chuyển dịch thành cái kinh nghiệm. Siêu hình học trở thành ý chí-nghe-bản-thân-nói, với tư cách trực giác hoàn toàn được trao cho chính nó trong biểu hiện hoặc đời sống tinh thần đơn độc trong sự hiện diện trọn vẹn. Một đặc quyền hiện diện như vậy không thừa nhận différance là nguồn gốc của nó - hoặc một sự thừa nhận về cái kinh tế và sự lặp lại của cái siêu việt trong cái kinh nghiệm cấu thành nên siêu hình học.
Derrida muốn biện hộ cho một siêu hình học thừa nhận différance là cơ sở khả tính và nguồn gốc của nó, hoặc cái kinh tế và sự lặp lại của cái siêu việt trong cái kinh nghiệm khai mở [enable] cho siêu hình học. Derrida biện hộ cho một siêu hình học thừa nhận cái cận-siêu việt, đó là khoảng cách giữa cái siêu việt và cái kinh nghiệm khai mở cho siêu hình học trong vận động của différance hoặc khả tính lặp lại. Theo cách này, Derrida muốn cứu siêu hình học khỏi sự đóng kín và cái chết tuyệt đối của nó - bằng cách đưa nó đến chỗ thừa nhận những gì nó đã kìm nén - différance và quasi- transcendental cận-siêu việt, như là điều kiện khả tính của nó. Derrida không tuyên bố quá nhiều về chung cục của ngôn trí trung tâm luận mà là điều khiến nó trở nên khả thể - différance và khả tính lặp lại tạo ra siêu hình học thông qua mối quan hệ nền tảng của sự lặp lại với một sự khác biệt. Sự phân biệt siêu việt với cái kinh nghiệm là một ảo tưởng, khác biệt với chính nó thông qua sự lặp lại bằng một khác biệt, trên thực tế vốn không phân biệt hay tách biệt bất cứ điều gì.
8. Sự vật và Không gian
Husserl đặt ra các điều kiện về khả tính nhận thức trong Sự vật và Không gian bằng cách công thức hóa chúng theo các chức năng cấu thành tiền-kinh nghiệm của không gian và thời gian. Các đối tượng được cấu thành và đưa ra theo khuôn khổ các cấu trúc lý tưởng này được hiểu và nhận thức, mà tâm trí áp đặt và xử lý các nhận thức đa bội, hoặc dữ liệu kinh nghiệm thuần túy, để tạo thành các đơn vị liên tục. Điều này đặt định cái lý tưởng như là điều kiện khả tính cho cái kinh nghiệm, như Husserl lập luận, các khách thể là có tính chủ ý và tính ý hướng cấu thành cái kinh nghiệm trong khuôn khổ của cái lý tưởng. Vấn đề với một lối công thức hóa như vậy là ở chỗ nó đặt ra một sự phân đôi cứng nhắc và tách biệt cái lý tưởng và cái kinh nghiệm, dẫn đến một aporia bí lối về tính không tương quan và khác biệt giữa cái siêu việt và cái kinh nghiệm. Phép quy giản hiện tượng học mà Husserl liên tục thiết lập để đạt được các điều kiện của tri thức, cụ thể là không gian và thời gian, cũng dẫn đến một aporia bí lối bằng cách vô hiệu hóa hiện tượng différance và khả tính lặp lại, đối với Derrida, được chuyển dịch thành điều kiện khả tính của cái lý tưởng. Như đã thảo luận trước đó, khả tính lặp lại trở thành một giải thích hợp lý hơn về cái cách thức mà siêu hình học hoạt động và phù hợp hơn với học thuyết về tính ý hướng hơn là phép quy giản hoặc cái siêu việt.
Différance cấu thành nên tính lý tưởng thông qua sự lặp lại hoặc khả tính lặp lại, và tính lý tưởng chỉ có thể trở nên khả thi thông qua tính lặp lại hoặc khả tính lặp lại của nó. Tính ý hướng ngụ ý rằng cái lý tưởng và kinh nghiệm có liên quan lẫn nhau và phép quy giản được thực hiện để [tr.150] đạt đến các dạng tiền-kinh nghiệm của không gian và thời gian, do đó phủ nhận hiện tượng về khả tính lặp lại được chuyển dịch thành điều kiện khả tính của cái lý tưởng. Husserl phân biệt thêm nhận thức thực [real] và nhận thức quay [reel], hoặc nhận thức siêu việt và nhận thức nội tại. Husserl đặt định nhận thức nội tại là tuyệt đối và là điều kiện khả tính của nhận thức siêu việt. Điều này dẫn đến một loại ngôn trí trung tâm luận vốn quên mất nguồn gốc của nó là différance, cũng như đã thảo luận trước đó; nó mang tính phản-trực giác ở chỗ nhận thức nội tại là cấu thành tố [constitutor] duy nhất của nhận thức siêu việt chứ không phải là cái dấu vết, vốn là sự khác biệt tiên nghiệm, chính là điều kiện khả tính cho genesis căn nguyên siêu việt. Nhận thức, như Derrida lập luận, tìm thấy điều kiện khả tính của nó trong dấu vết, hay différance, và sự lặp lại của siêu việt trong cái kinh nghiệm. Nhận thức nội tại lặp lại nhận thức siêu việt và do đó làm nên trung gian của nó, chứ không chỉ được quyết định bởi trực giác siêu việt và tiền-kinh nghiệm. Cái siêu việt chỉ được tạo ra như là tách biệt và khác biệt với cái kinh nghiệm thông qua vận động ảo tưởng của différance, chính tính lặp lại tạo ra ảo tưởng về cái siêu việt và kinh nghiệm như là tách biệt thông qua vận động phân biệt của cái dấu vết, hoặc việc sản sinh ra sự khác biệt của nó từ dấu hiệu cội nguồn duy trì siêu hình học.
Phép quy giản được Husserl trình diễn nhiều lần để đạt đến các điều kiện thuần túy của tri thức, cái nội tại hoặc tiền-kinh nghiệm hợp nhất các hiện tượng rời rạc, nhận thức đa bội hoặc vật chất chết thành các nhất tính liên tục của các khách thể, do đó đưa hiện tượng học vào một aporia bí lối bằng cách vô hiệu hóa vận động của différance và khả tính lặp lại, vốn là các điều kiện chân thực của khả tính cho lý tưởng tính. Thật nghịch lý, phép quy giản lại là sự tái diễn và lặp lại của cái noema chứ không phải là sự cô lập của cái siêu việt thông qua việc phủ định cái kinh nghiệm. Phép quy giản chỉ có thể được thực hiện thông qua sự mô phỏng lại hoặc lặp lại này của noema, và do đó, để định nghĩa siêu việt mà không có kinh nghiệm sẽ đưa hiện tượng học vào một aporia bí lối. Cái siêu việt chỉ được tạo ra tách biệt với cái kinh nghiệm như một ảo ảnh, thông qua vận động hồi tưởng của cái dấu vết, do đó, phép quy giản hiện tượng học về cơ bản vô hiệu hóa các điều kiện khả tính của hiện tượng học bằng cách phủ định vận động của khả tính lặp lại. Thứ aporia bí lối này được giải quyết bằng cách Derrida giải thích về cận-siêu việt, đặt định mối quan hệ giữa khả tính lặp lại hoặc mô phỏng lại với sự khác biệt vốn tạo ra ảo tưởng rằng siêu việt và kinh nghiệm là khác biệt khi chúng giống nhau.
Như Derrida đã bàn đến trong Of Grammatology – Văn tự học, mọi thứ được biểu đạt đều đã ở vị trí của cái biểu đạt, và cái được biểu đạt chỉ tồn tại thông qua sự trung gian của nó với tư cách là cái biểu đạt để trở thành hiện hữu, do đó, sự phân biệt cứng nhắc giữa nhận thức siêu việt và nhận thức nội tại của Husserl theo nghĩa này, sẽ được chứng minh là có vấn đề. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề này sẽ không được coi là điều hiển nhiên. Người ta có thể đặt câu hỏi liệu cách đặt vấn đề này có cần thiết để đạt đến các điều kiện khả tính cho tri thức hay không và liệu việc lý giải ấy về cái siêu việt trong hiện tượng học hay cái cận-siêu việt trong hậu-hiện tượng học có đưa ra được một cách lý giải thuyết phục hơn đối với một lý thuyết về tri thức hay không. Người ta cũng có thể đặt câu hỏi liệu việc Derrida đặt định ra cái cận-siêu việt có cứu được hiện tượng học bằng cách đưa ra mối quan hệ động giữa chúng là différance và sự lặp lại hay không, khi mà cái lý tưởng phải khác với chính nó với tư cách là [tr.151] dấu ấn khởi nguyên thông qua sự lặp lại với một khác biệt cần được thể hiện. Điều này cho phép hiện tượng học chuyển từ tĩnh tại sang tạo sinh bằng cách đặt tên cho các điều kiện khả tính cho căn nguyên siêu việt. Đây là différance và không gian. Cái siêu việt chỉ được hình thành theo cách hồi tưởng thông qua sự lặp lại, vì sự lặp lại của nó được truyền đạt qua không gian và thời gian, vốn đảm bảo sự truyền tải của nó qua lịch sử. Cái siêu việt, hay huyền thoại của nó, luôn bị trì hoãn và chậm lại thông qua sự truyền đạt của nó đến chúng ta với bước chuyển qua của différance, điều này đảm bảo rằng tư duy sẽ luôn ‘xuất hiện’ khi cái siêu việt được tái-kích hoạt từ cội nguồn tuyệt đối của nó trong quá khứ thông qua sự lặp lại của nó trong hiện tại và tương lai.
9. ‘Epoche’/Treo lại với tư cách Hiện diện
‘Epoche’/Treo lại của Husserl không gì khác hơn là một phần/bộ phận ‘trầm tích’ hoặc ‘phản chiếu’ của phép ‘Quy giản Hiện tượng học’. Vậy là, cần nhận ra ‘Epoche’ thực sự là gì? Trước tiên, chúng ta phải hiểu ‘Quy giản Hiện tượng học’ là gì? Câu trả lời có thể là - ‘Quy giản Hiện tượng học’ là một loại phân tích – tổng hợp về một khách thể bên ngoài lên ý thức con người. Khách thể đang được xem xét trong khi được chủ thể (tôi) nhận thức, ánh sáng từ khách thể đó chiếu rọi vào ý thức và tạo ra một hình ảnh lên ý thức con người. Đó là ‘Noema’, như Husserl nói. Hơn nữa, ý thức con người vốn không hoạt động và kém hiệu quả cho đến khi & trừ khi ‘Tâm trí’ phản ánh về nó (Noema). Sau khi tâm trí con người phản ánh về ‘Noema’, chúng ta có được phép quy giản thứ hai của cái khách thể nói trên thành ‘Ý tưởng’ hoặc các ‘Hình thức của Ý tưởng’. Đây là ‘Noesis’, như Husserl nói. Ở giai đoạn này, ý thức chủ động của con người cố gắng quên đi cái khách thể căn cội ngoại tại và bận rộn phân tích cái ‘Noesis’ nói trên. Ở đây, toàn bộ quá trình phân tích ‘Noesis’ trở nên có ‘Tính ý hướng’. ‘Tâm trí’ càng tập trung cao độ vào ý thức, thì cái siêu việt của đối tượng dưới tình trạng ‘Epoche’/Treo lại sẽ càng mang tính ‘Tổng hợp’. Ở giai đoạn này, quá trình “Nội tại hóa Không gian Bên ngoài” (khách thể) sẽ diễn ra. Ở đây, toàn bộ đối tượng bên ngoài trở thành một loại xúc cảm/cảm giác về “mối quan hệ nhân quả không gian-thời gian”; và cuối cùng được quy giản thành một ý thức tổng hợp thuần túy của khách thể gốc. Đây là ‘Epoché/ Treo lại’, như Husserl giải thích khái niệm “Quy giản hiện tượng học” và như là ‘Epoché/ Treo lại’ đối với tôi là - “Linh hồn phản chiếu (Quang ảnh) của thế giới ngoại tại thông qua ý thức con người”; và sau khi phản chiếu từ ‘epoche’ ‘treo lại’, kết quả là ‘ý thức quang ảnh’, đến lượt nó trở thành “bản chất nhân hóa của sự hiện diện ngoại tại”, thông qua một loạt ‘phản ánh quang ảnh’.
10. ‘Ý tưởng’ như Sự hiện diện
Chúng ta thực sự thấy mình đang ở trong một thế giới khó hiểu. Chúng ta muốn hiểu những gì chúng ta thấy xung quanh mình và hỏi: Bản chất của vũ trụ là gì? Vị trí của chúng ta trong đó là gì và chúng ta và vũ trụ đến từ đâu? Tại sao nó lại như vậy? [P.152] Để cố gắng trả lời những câu hỏi này, chúng ta chấp nhận một “bức tranh thế giới” nào đó. Giống như một tòa tháp rùa vô tận nâng đỡ trái đất phẳng là một bức tranh như vậy, thì lý thuyết về “siêu dây” cũng vậy. Cả hai đều là lý thuyết về vũ trụ, mặc dù lý thuyết sau có tính toán học và chính xác hơn nhiều so với lý thuyết trước. Cả hai lý thuyết đều thiếu bằng chứng quan sát; chưa ai từng nhìn thấy một con rùa khổng lồ với trái đất trên lưng, nhưng rồi, cũng chưa ai nhìn thấy siêu dây. Tuy nhiên, lý thuyết về con rùa không phải là một lý thuyết khoa học tốt vì nó dự đoán rằng con người có thể rơi khỏi rìa thế giới. Những nỗ lực lý thuyết đầu tiên để mô tả và giải thích vũ trụ liên quan đến ý tưởng rằng các sự kiện và hiện tượng tự nhiên được điều khiển bởi các linh hồn có cảm xúc của con người, những linh hồn này hành động theo cách rất giống con người và không thể đoán trước. Những linh hồn này cư ngụ trong các khách thể tự nhiên, như sông và núi, bao gồm các thiên thể, như mặt trời và mặt trăng.
Mặt trời luôn mọc ở hướng đông và lặn ở hướng tây, bất kể có cúng tế thần mặt trời hay không. Hơn nữa, mặt trời, mặt trăng và các hành tinh đều đi theo những quỹ đạo chính xác trên bầu trời, có thể dự đoán trước với độ chính xác đáng kể. Mặt trời và mặt trăng vẫn có thể là các vị thần, nhưng chúng là những vị thần tuân theo các luật lệ nghiêm ngặt, rõ ràng là không có ngoại lệ, nếu người ta không tính đến những câu chuyện như mặt trời bị Hanuman (trong Ramayana, một sử thi Ấn Độ) bắt lấy và giấu dưới cánh tay của Người. Cho đến nay, hầu hết các nhà khoa học đều quá bận rộn với việc phát triển các lý thuyết mới mô tả vũ trụ là gì mà không đặt câu hỏi tại sao. Mặt khác, những người có nhiệm vụ hỏi - tại sao các nhà triết học lại không thể theo kịp sự tiến bộ của các lý thuyết khoa học? Vào thế kỷ XVIII, các nhà triết học coi toàn bộ kiến thức của con người, bao gồm cả khoa học, là lĩnh vực của họ và thảo luận các câu hỏi như: Liệu vũ trụ có một Sự hiện diện xác định của riêng nó không? Nó có khởi đầu hay kết thúc? Liệu có khả tính nào tìm ra một giải pháp siêu hình độc đáo giúp nhân loại xác định sự hiện diện của vũ trụ và sự sáng tạo & các sinh vật sống, không sống cùng một lúc không?
Wittgenstein, nhà triết học nổi tiếng nhất thế kỷ XIX đã nói những từ tối hậu như sau: “Nhiệm vụ duy nhất còn lại của triết học là phân tích ngôn ngữ”. Theo ông, nếu chúng ta cố gắng phân tích ngôn ngữ của các cụm từ - God is omnipresent “Chúa hiện diện khắp nơi”, God is omniscient “Chúa là toàn tri”, với các ý tưởng cuối cùng của các cụm từ đó, thì chúng ta có thể dễ dàng cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong chúng ta. Với sự trợ giúp của các châm ngôn này của Wittgenstein, chúng ta cũng có thể phân tích ngôn ngữ của cụm từ - “Siêu hình học của Sự hiện diện”. Và nếu chúng ta có thể khám phá cụm từ nói trên, thì đó sẽ là chiến thắng của lý trí con người – vì khi đó trước tiên chúng ta phải cảm nhận được bản chất hiện diện của Chúa trong chúng ta cả về ngôn ngữ và tâm hồn. Và tôi nghĩ, để hiện thực hóa tốt hơn những ý tưởng cuối cùng về Chúa, thì có thể tiếp cận với một lý thuyết cú pháp tốt hơn, như ý tưởng về ‘Photosyntagmatics’ Quang ảnh-tổ hợp học. ‘Photosyntagm’ Quang ảnh-tổ hợp là sự trình bày lý thuyết hoặc theo nghĩa đen của ‘những ý tưởng có ý thức về quang ảnh’ của ‘hình tượng quang ảnh-ý thức về ánh sáng’ được tạo ra trong ‘Tâm trí’; kết quả sau khi phản ánh từ ‘epoché’ treo lại hoặc ‘Photo’ Quang ảnh; và ‘Photosyntagmatics’ Quang ảnh-tổ hợp học là phương pháp chuyển dịch các ý tưởng quang ảnh-ý thức thành các cấu trúc theo nghĩa đen có ý nghĩa với sự trợ giúp của photosyntagm quang ảnh-tổ hợp tương ứng, như tôi thấy.
[P.153] Sự hiện diện của con người trong thế giới sống này là một loại giọt mưa đơn lẻ (dưới dạng linh hồn) từ thiên đường. Và ‘Hiện tượng học’ cố gắng hình thành một quan điểm tự nhất quán và toàn diện về thế giới sau khi xem xét cẩn thận các khía cạnh và phạm vi khác nhau của trải nghiệm con người. Người ta cho rằng, nhiệm vụ của ‘Hiện tượng học’ không chỉ là những suy đoán siêu hình mà còn có ý nghĩa xã hội. Và chúng tôi cảm thấy nhiệm vụ của Nhà triết học là - tìm ra toàn bộ ý nghĩa của các phương án thay thế có ý nghĩa cho tương lai của nhân loại và tìm hiểu các khả tính hiện thực hóa chúng bằng một cách tiếp cận khoa học kịp thời hiệu quả, như Edmund Husserl và sau đó là Jacques Derrida đã nỗ lực. Các nhà tư tưởng hiện đại nói rằng, chỉ có ‘Thượng đế’ hoặc ‘Tuyệt đối’ mới không thể xác định sự hiện diện của một thực thể nào đó trong vũ trụ sống này trừ khi Tâm trí (M) mong muốn như vậy. Họ nói rằng, Tâm trí là thực thể thứ năm xác định sự hiện diện của một ai đó trong chính thế giới này. Dưới góc độ này, chúng ta có thể lấy một ví dụ từ ‘Upanishad’ nói rằng: - “Brahman lúc đầu là Một & Duy nhất; sau đó nó mong muốn là Nhiều; vậy là sau đó có được thế giới & vũ trụ”.
Một ví dụ khác trong ‘Kinh thánh’ nói rằng, “Adam là sinh vật sống đầu tiên của Vũ trụ; sau đó chàng khát khao được ăn trái cấm ngon lành và sau đó hòa nhập với Eva (sinh vật nữ thứ hai do Chúa phái đến) và sau đó có được gia đình”. Từ những ví dụ siêu hình này, chúng ta thấy rằng, ham muốn của con người cũng là một yếu tố quyết định vị trí của một người trong chính thế giới con người sống động này; và khát khao của đấng Tuyệt đối là đấng Tuyệt đối; nếu không có khát khao của đấng ấy, thì người ta không thể di chuyển khỏi bất cứ nơi đâu.
11. Hòa âm theo nghĩa đen
Ngôn ngữ đòi hỏi một cấp độ kép chuyển từ nghĩa cũ sang nghĩa mới, tạo ra những gì chúng ta không biết từ những gì chúng ta biết. Vận động này chính xác là vận động của sự tổng hợp và phóng chiếu, đưa chúng ta từ ý nghĩa của một từ đơn sang ý nghĩa của tổ hợp được phóng chiếu. Và khó khăn này hầu như không tồn tại đối với Husserl. Vốn là một nhà toán học và vật lý, Husserl, giống như Descartes, đã bị làm phiền bởi sự nhầm lẫn giữa ‘ngôn ngữ’ là ‘Concert-o-Déconcert’ (một cách tiếp cận Giải cấu trúc luận Derridian) (Manas, 2010) và đám hỗn độn các quan điểm tồn tại trong triết học. Rõ ràng, triết học ‘vẫn chưa phải là một khoa học’, và điều này khiến Husserl đưa ra hiện tượng học của mình như một nỗ lực để biến triết học thành một ‘khoa học nghiêm ngặt’. Do đó, theo quan điểm của một ‘khoa học nghiêm ngặt’, thuật ngữ ‘Photosyntagm’ quang ảnh-tổ hợp có thể được giải thích là sự trình bày lý thuyết hoặc theo nghĩa đen của ‘những ý tưởng có ý thức về ánh sáng’, xuất phát từ sự phản ánh từ ‘epoché’ hoặc ‘Photo’ (đối với tôi). Và ‘Photo-syntagmatics’ Quang ảnh-tổ hợp học có thể là phương pháp dịch ‘những ý tưởng có ý thức về quang ảnh’ thành các cấu trúc theo nghĩa đen có nghĩa với sự trợ giúp của photosyntagm quang ảnh-tổ hợp tương ứng: như tôi thấy. Và nỗ lực của Derrida hướng tới việc giải cấu trúc sự hình thành tổ hợp Ngôn ngữ nếu áp dụng đối với Photosyntagm Quang ảnh-tổ hợp, có thể dẫn đến một nhận thức hướng tới việc Giải-hòa hợp hình thành Ngôn ngữ của nó, bằng cách hòa hợp các cấu trúc quang ảnh-tổ hợp của chúng. [P.154] Do đó, thuật ngữ Giải-hòa hợp ‘Déconcert’ (Manas, 2010) có thể được khái niệm hóa như sau: một Phương pháp Triết học để đánh giá các hòa-hợp-phản-chiếu-hiện- tượng, xuất phát từ sự ‘hòa hợ-p’ của hai (2) hoặc nhiều tổ hợp hơn, tất cả cùng một lúc.
12. Pheno → Ảnh → Chuyển đổi Từ
Tiền tố “pheno-“ bắt nguồn từ từ tiếng Hy Lạp φαίνω phainein, có nghĩa là “tỏa sáng”, “xuất hiện” hoặc “đưa ra ánh sáng”; được sử dụng để chỉ điều gì đó có thể quan sát được hoặc biểu hiện ra; trong triết học Husserl, thuật ngữ “phenol” ám chỉ “thứ xuất hiện, trình hiện ra” hoặc “hiện tượng”, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “phainomenon”; đây là thuật ngữ trung tâm trong hiện tượng học của Husserl, nghiên cứu về cấu trúc của trải nghiệm và ý thức, cụ thể là cách mọi thứ xuất hiện với chúng ta. Trong hiện tượng học của Edmund Husserl, sự chuyển đổi từ “pheno”/trải nghiệm sang “photo”/hình ảnh sang “word”/mô tả [không phải là một tiến trình tuyến tính mà là một sự tương tác phức tạp; hiện tượng học khám phá các cấu trúc của ý thức và cách thức mà mọi thứ xuất hiện với chúng ta; cách tiếp cận của Husserl nhấn mạnh vào việc mô tả các trải nghiệm như chúng được đưa ra, không có tiền đề; điều này bao gồm một quá trình phản ánh về các trải nghiệm của chúng ta, bỏ ngoặc các giả định của chúng ta về thế giới ngoại tại, và sau đó mô tả các đặc điểm thiết yếu của những gì xuất hiện trong ý thức; tiền tố “pheno-“ bắt nguồn từ từ tiếng Hy Lạp φαίνω phainein, có nghĩa là “tỏa sáng”, “xuất hiện” hoặc “đưa ra ánh sáng”; được sử dụng để chỉ điều gì đó có thể quan sát được hoặc biểu hiện ra; trong triết học Husserl, thuật ngữ “phenol” ám chỉ “thứ xuất hiện, trình hiện ra” hoặc “hiện tượng”, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “phainomenon”; đây là thuật ngữ trung tâm trong hiện tượng học của Husserl, nghiên cứu về cấu trúc của trải nghiệm và ý thức, cụ thể là cách mọi thứ xuất hiện với chúng ta. HHN] (tức là nghĩa đen) sự hòa hợp biến đổi, tôi đã nhận được ánh sáng từ phát minh bất diệt của Husserl ‘epoché’ treo lại. Giống như trong trường hợp của cơ chế ‘Photosynthesis’ Quang ảnh-tổng hợp, lá cây chuẩn bị & tiếp nhận vật liệu thức ăn của chúng thông qua ánh sáng mặt trời; giống như tất cả các loại hình Văn chương tiếp nhận vật liệu thức ăn chủ quan của chúng dưới dạng các ý tưởng nghĩa đen mới, thông qua cơ chế Husserlian vĩnh cửu này của ‘epoché’ treo lại, hoặc, đối với tôi, nó có thể được hiểu rõ ràng hơn là photo-mechanism “cơ chế quang ảnh”. Đó là một loại động lực của ‘epoché’ treo lại hay đúng hơn là Photo Dynamics Động lực học Quang ảnh. Đối với ‘Giải cấu trúc’, phương pháp của nó thường là lấy các đối lập nhị phân trong một văn bản - bên trong và bên ngoài hoặc chủ thể và khách thể, mà ông lập luận là được xác định về mặt văn hóa và lịch sử, thậm chí phụ thuộc lẫn nhau - và chỉ ra rằng chúng không rõ ràng hoặc ổn định như thoạt đầu có vẻ thế, và hai khái niệm đối lập đó mang tính linh hoạt, sau đó sử dụng sự mơ hồ này để chỉ ra rằng ý nghĩa của văn bản cũng là linh hoạt.
Tính lưu động này là di sản của siêu hình học truyền thống [tức là Platonist] dựa trên các đối lập, tìm cách thiết lập tính ổn định của ý nghĩa thông qua các khái niệm tuyệt đối. Kết quả là tìm ra những cách thức diễn giải văn bản mới lạ đáng kinh ngạc, đến mức là những người ủng hộ Derrida khẳng định rằng tác phẩm của ông bao gồm các cách đọc tỉ mỉ tìm ra triết học mới. Trên thực tế, không có “ý nghĩa” nào là ổn định: thay vào đó, điều duy nhất duy trì cảm giác nhất tính trong một “văn bản được bỏ trong ngoặc” là thứ mà Derrida gọi là “siêu hình học của sự hiện diện”, trong đó hiện diện được trao đặc quyền chân lý — vì lý do đơn giản là người ta không thể cùng lúc tái cấu trúc nhiều hơn là chỉ “bỏ trong ngoặc” hoặc phép quy giản eidetic thị niệm nhưng theo tôi, người ta có thể giải cấu trúc toàn bộ đặc điểm của chúng theo hướng tái cấu trúc phổ quát của một cấu trúc hiện tượng học-quang ảnh [photo-phenomenological structure] chỉ thông qua sự hòa hợp của các thành phần cấu thành tổ hợp của chúng. Và do đó, Déconcert Giải hòa hợp từ đặc điểm triết học, có thể được giải thích là: lý thuyết về việc nuôi dưỡng syntagms các tổ hợp bằng Photo Dynamics Quang ảnh Động học, bằng cách hòa hợp với [các] hình thức văn chương phù hợp, tạo ra và sử dụng tất cả cùng một lúc. [‘Photosyntagm Quang ảnh Tổ hợp’ là kết quả được nuôi dưỡng & hòa hợp của một tổ hợp - đây là một ví dụ về trò chơi Déconcert Giải-hòa hợp được thực hiện bởi Photo-mechanism “Cơ chế quang ảnh” — loại động lực của ‘epoché’ treo lại — “Photo Dynamics Quang ảnh Động học”].
Kết luận
[P.155] Khi nghiên cứu lại khái niệm vĩnh cửu ‘epoché’ treo lại của Edmund Husserl thông qua sự hòa hợp Pheno→Photo→Word [Hiện tượng – Quang ảnh – Từ ngữ], người ta có thể tái khám phá rất nhiều ánh sáng mang tính chiều góc mới hướng đến trở thành hiện thân của một chiều góc Hiện tượng học→ Giải cấu trúc→ Giải hòa hợp mới. Trong bài viết này, tôi đã xem xét các điều kiện khả tính cho sự tồn tại lâu dài của hiện tượng học thông qua một mô tả về việc Derrida truy vết ngược về các cội nguồn của siêu hình học, trong đó có tính đến différance, sự khác biệt động và tiên nghiệm giữa cái siêu việt và kinh nghiệm được dịch thành hư không. Điều này giải thích cho các điều kiện khả tính của siêu hình học và phương thức sản xuất của nó thông qua khái niệm khả tính lặp lại. Nó được dịch thành sự lặp lại với một sự khác biệt duy trì sự khác biệt giữa cái siêu việt và kinh nghiệm với tư cách hư không và trở thành dấu vết của các dấu vết có thể lặp lại, vốn duy trì ảo tưởng rằng cái siêu việt và kinh nghiệm là khác biệt khi trên thực tế, chúng giống nhau và có thể hoán đổi cho nhau. Khái niệm-siêu hình của Derrida về différance chứng minh rằng sự phân biệt siêu việt-kinh nghiệm, hyle-morphe, noema-noesis là một ảo tưởng và sự khác biệt phân chia chúng là một sự khác biệt hư không.
Là một dấu vết cơ bản của các dấu vết có thể lặp lại, nó tạo ra cái siêu việt và kinh nghiệm thông qua trò chơi của những khác biệt mà trên thực tế, không phân chia bất cứ thứ gì. Điều này là do cái siêu việt được dịch thành cái kinh nghiệm; aporia bí lối cơ bản của siêu hình học là ở chỗ sự phân chia tách biệt cái siêu việt và kinh nghiệm cuối cùng là sự lặp lại của nó với tư cách cái giống hệt, hoặc khả tính lặp lại. Nhà viết kịch kiêm tiểu thuyết gia Albert Camus mắc nợ Husserl rất nhiều, cũng như các nhà thần học như Martin Buber và Paul Tillich. Hiện tượng học cũng có thể được coi là tiền thân của các trào lưu triết học khác, bao gồm hậu cấu trúc, hậu hiện đại, giải cấu trúc, và thậm chí là các xu hướng được chọn trong truyền thống phân tích có thể vận hành cho Cuộc khủng hoảng Hiện tại của Hiện tượng học Siêu việt cũng như đóng góp nỗ lực chung của họ để khám phá các chiều kích mới của Hiện tượng học Siêu việt, cuối cùng có thể giúp mở ra các Chiều kích siêu việt mới để đáp ứng Cuộc khủng hoảng Thế kỷ 21 có thể xảy ra trước.Và “Chuyển đổi Hiện tượng học Husserl” chỉ là một nỗ lực hướng tới việc khám phá siêu hình học kết quả của Triết học Giải cấu trúc của Derrida trong thời đại hiện nay. Trên hết, đó là một nỗ lực hướng tới việc tái tư duy về Hiện tượng học của Husserl một cách khoa học hơn sau Giải cấu trúc của Derrida; và mở ra các chiều kích Giải cấu trúc mới — Một trong những chiều kích mới của nó có thể được trình hiện là “Quang ảnh-Hiện tượng học”; và có thể được đưa ra như một nhánh mới của Triết học thuộc Trường phái mới: Concertive Humanities Khoa học nhân văn Hòa hợp; đặt nền tảng cho nghiên cứu chiều góc mới về trí tuệ của triết học khoa học-triết hậu hiện đại thế kỷ 21.
______________________________________
Nguồn: Roy Manas (2010). Transforming of Husserlian Phenomenology, Filosofía UIS, Volumen 9, Número 1, Enero - junio de 2010, pp. 131 – 157.
References
Husserl, E. (1931). Ideas: General Introduction to Pure Phenomenology. Translated by- Gibson, New York: MacMillan Co.
Kolakowski, Leszek (1987). Husserl and the Search for Certitude, University of Chicago Press.
Kolakowski, Leszek (2004). For What Tomorrow. A Dialogue with Elisabeth Roudinesco. Stanford University Press 2004.
Hubert L. Dreyfus & Paul Rabinow (1983). Michel Foucault: Beyond Structuralism and Hermeneutics, The University of Chicago, USA: Press.
Hubert L. Dreyfus & Paul Rabinow (1973) Speech and Phenomena, and Other Essays on Husserl’s Theory of Signs. (1973). Trans. by David B. Allison, Evanston: Northwestern University Press.
Stiegler, Bernard. Derrida and Technology: Fidelity at the Limits of Deconstruction and the Prosthesis of Faith, Nacques Derrida and the Humanities, In: Tom Cohen (ed.), (ISBN 0-521-62565-3).
Ströker, Elisabeth (1993). Husserl’s Transcendental Phenomenology, Stanford: Stanford University Press.
Dreyfus, Hubert (ed.) (1982). Husserl, Intentionality, and Cognitive Science, Cambridge, MA: MIT Press.
Dreyfus, Hubert (1982), Noema and Meaning in Husserl, Phenomenology and Philosophical Research, 50: 263-271.
Dreyfus, Hubert (1982), Husserl’s Theory of the Intentionality of Consciousness, in: Dreyfus (ed.) 1982.
Schütz, Alfred (1966). The Problem of Transcendental Intersubjectivity in Husserl,” In: Collected Papers III, The Hague: Nijhoff.
Norris, Christopher (1982). Deconstruction: Theory and Practice.
Thomas, Michael (2006). The Reception of Derrida: Translation and Transformation.
Eyes of the University: Right to Philosophy 2, trans. Jan Plug (Stanford: Stanford University Press, 2004).
Of Grammatology, trans. Gayatri Chakravorty Spivak: Johns Hopkins University Press (1976)
Lawlor, Leonard (2002). Derrida and Husserl: The Basic Problem of Phenomenology, Indiana: Indiana University Press.
Stephen W. Hawking (1992). A Brief History Of Time. Bantam Press, Transworld Publishers Ltd. Great Britain.
Stephen W. Hawking (1992). The Theory Of Everything. Publisher: Phoenix Books.
Roy, Manas (2008). Derrida’s Philosophical Déconstruction, Transcendent Philosophy Journal, Vol.9, Dec.2008 edition, pp.237-246.
Roy, Manas (2010). Phenomenological Existentialism, Think, Vol.9, Issue 24, pp 51-63, Published by: The Royal Institute of Philosophy; Cambridge University Press, U.K.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét