Powered By Blogger

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2025

Chuyển đổi của Hiện tượng học Husserlian (III)

Manas Roy

Người dịch: Hà Hữu Nga

7. Ngôn trí Trung tâm luận của Husserl

[P.148] Husserl duy trì sự phân biệt chặt chẽ giữa cái siêu việt và kinh nghiệm trong văn bản vốn củng cố hiện tượng học của ông như một thứ chủ nghĩa duy tâm siêu việt, cụ thể là Ý tưởng I. Ví dụ, trong chương mở đầu, ông thiết lập sự tách biệt giữa sự kiện và bản chất, cái thực và cái không thực, và duy trì nguyên tắc của các nguyên tắc trong hiện tượng học của mình, cho rằng mọi trực giác đều là nguồn thẩm quyền cho tri ​​thức, và bất cứ điều gì tự thể hiện trong ‘trực giác’ ở dạng nguyên thủy chỉ đơn giản là được chấp nhận như nó tự thể hiện, mặc dù chỉ trong giới hạn mà nó tự thể hiện. Nói cách khác, Husserl coi trọng trực giác hoặc tính cho sẵn lý tưởng của một khách thể là thực tại của nó. (Động thái này được Derrida đặc ân coi là sự hiện diện như những gì được cho là hoàn toàn thể hiện cho chính nó; do đó, điều này làm cho cái lý tưởng trở nên tuyệt đối). Derrida thảo luận về logocentrism ngôn trí trung tâm luận trong Speech and Phenomena: Theo nghĩa này, trong siêu hình học hiện diện, trong triết học với tư cách là tri ​​thức về sự hiện diện của khách thể, với tư cách là cái hiện-hữu-trước-bản-thân của tri ​​thức trong ý thức, chúng ta tin, khá đơn giản và theo nghĩa đen, vào tri ​​thức tuyệt đối như là sự khép lại nếu không phải là kết cục của lịch sử. Và chúng ta tin rằng một sự khép lại như vậy đã diễn ra.   

Lịch sử của hiện hữu với tư cách hiện diện, với tư cách tự hiện diện trong tri ​​thức tuyệt đối, với tư cách ý thức về tự thân trong vô tận tính hay parousia - lịch sử này đã khép lại. Lịch sử của sự hiện diện đã khép lại, vì ‘lịch sử’ chưa bao giờ có ý nghĩa gì khác ngoài Gegenwärtigung sự trình hiện của Hữu thể, sự sản sinh và tập hợp các hiện hữu bằng hiện diện, với tư cách là tri ​​thức và làm chủ [mastery]. Vì tự-hiện diện tuyệt đối trong ý thức là thiên hướng vô hạn của sự hiện diện trọn vẹn, nên việc đạt được tri ​​thức tuyệt đối là chung cục của cái vô hạn, điều này chỉ có thể là nhất tính của khái niệm, logos và ý thức trong một giọng nói không có différance. Do đó, lịch sử siêu hình học có thể được diễn đạt như sự khai mở của cấu trúc hoặc lược đồ của một ý chí tuyệt đối muốn-nghe-bản-thân-nói. Lịch sử này khép lại khi cái tuyệt đối vô hạn này xuất hiện với chính nó với tư cách là cái chết của chính nó. Một giọng nói không có différance, một giọng nói không có chữ viết, vừa tuyệt đối sống lại vừa tuyệt đối chết. Trong đoạn trích trên, Derrida thảo luận về các điều kiện khả tính của logocentrism ngôn trí trung tâm luận với sự khám phá ra différance. Ngôn trí trung tâm luận coi trọng sự hiện diện như là trình hiện khách tính của trực giác hoàn toàn dành cho chính nó, mà Husserl coi trọng trong đời sống tinh thần đơn độc như là các dấu hiệu biểu đạt hơn là chỉ dẫn.

Trực giác với tư cách tuyệt đối, hiện diện, khách tính và dành cho chính nó (với tư cách hiện diện-trình hiện Gegenwärtigung của hiện hữu, tương đương với những gì mà Derrida đặt định là logocentrism - ngôn trí trung tâm luận của Husserl. Sự khép lại của siêu hình học và chung cục của lịch sử-siêu hình học như một thứ chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối không thừa nhận différance, hay sự khác biệt giữa siêu việt và kinh nghiệm, cấu thành siêu hình học - trở thành cái mà Derrida muốn cứu hiện tượng học thoát khỏi bằng hậu-hiện tượng học và cận-siêu việt quasi-transcendental của ông. Derrida chỉ ra rằng cái dấu vết và cái chết nằm ở trung tâm của hiện diện và là hiện thân điều kiện khả tính của nó. Différance chuyển thành sự ô nhiễm của cái siêu việt và kinh nghiệm, hay sự tương tác giữa chúng trong vận động tái tạo của khả tính lặp lại. Différance [tr.149] duy trì ảo tưởng cho rằng cái siêu việt và kinh nghiệm là tách biệt khi nghịch lý thay, một sự khác biệt hư không, phân tách hư không vì cái siêu việt chuyển dịch thành cái kinh nghiệm. Siêu hình học trở thành ý chí-nghe-bản-thân-nói, với tư cách trực giác hoàn toàn được trao cho chính nó trong biểu hiện hoặc đời sống tinh thần đơn độc trong sự hiện diện trọn vẹn. Một đặc quyền hiện diện như vậy không thừa nhận différance là nguồn gốc của nó - hoặc một sự thừa nhận về cái kinh tế và sự lặp lại của cái siêu việt trong cái kinh nghiệm cấu thành nên siêu hình học.   

Derrida muốn biện hộ cho một siêu hình học thừa nhận différance là cơ sở khả tính và nguồn gốc của nó, hoặc cái kinh tế và sự lặp lại của cái siêu việt trong cái kinh nghiệm khai mở [enable] cho siêu hình học. Derrida biện hộ cho một siêu hình học thừa nhận cái cận-siêu việt, đó là khoảng cách giữa cái siêu việt và cái kinh nghiệm khai mở cho siêu hình học trong vận động của différance hoặc khả tính lặp lại. Theo cách này, Derrida muốn cứu siêu hình học khỏi sự đóng kín và cái chết tuyệt đối của nó - bằng cách đưa nó đến chỗ thừa nhận những gì nó đã kìm nén - différancequasi- transcendental cận-siêu việt, như là điều kiện khả tính của nó. Derrida không tuyên bố quá nhiều về chung cục của ngôn trí trung tâm luận mà là điều khiến nó trở nên khả thể - différance và khả tính lặp lại tạo ra siêu hình học thông qua mối quan hệ nền tảng của sự lặp lại với một sự khác biệt. Sự phân biệt siêu việt với cái kinh nghiệm là một ảo tưởng, khác biệt với chính nó thông qua sự lặp lại bằng một khác biệt, trên thực tế vốn không phân biệt hay tách biệt bất cứ điều gì.

8. Sự vật và Không gian

Husserl đặt ra các điều kiện về khả tính nhận thức trong Sự vật và Không gian bằng cách công thức hóa chúng theo các chức năng cấu thành tiền-kinh nghiệm của không gian và thời gian. Các đối tượng được cấu thành và đưa ra theo khuôn khổ các cấu trúc lý tưởng này được hiểu và nhận thức, mà tâm trí áp đặt và xử lý các nhận thức đa bội, hoặc dữ liệu kinh nghiệm thuần túy, để tạo thành các đơn vị liên tục. Điều này đặt định cái lý tưởng như là điều kiện khả tính cho cái kinh nghiệm, như Husserl lập luận, các khách thể là có tính chủ ý và tính ý hướng cấu thành cái kinh nghiệm trong khuôn khổ của cái lý tưởng. Vấn đề với một lối công thức hóa như vậy là ở chỗ nó đặt ra một sự phân đôi cứng nhắc và tách biệt cái lý tưởng và cái kinh nghiệm, dẫn đến một aporia bí lối về tính không tương quan và khác biệt giữa cái siêu việt và cái kinh nghiệm. Phép quy giản hiện tượng học mà Husserl liên tục thiết lập để đạt được các điều kiện của tri thức, cụ thể là không gian và thời gian, cũng dẫn đến một aporia bí lối bằng cách vô hiệu hóa hiện tượng différance và khả tính lặp lại, đối với Derrida, được chuyển dịch thành điều kiện khả tính của cái lý tưởng. Như đã thảo luận trước đó, khả tính lặp lại trở thành một giải thích hợp lý hơn về cái cách thức mà siêu hình học hoạt động và phù hợp hơn với học thuyết về tính ý hướng hơn là phép quy giản hoặc cái siêu việt.

Différance cấu thành nên tính lý tưởng thông qua sự lặp lại hoặc khả tính lặp lại, và tính lý tưởng chỉ có thể trở nên khả thi thông qua tính lặp lại hoặc khả tính lặp lại của nó. Tính ý hướng ngụ ý rằng cái lý tưởng và kinh nghiệm có liên quan lẫn nhau và phép quy giản được thực hiện để [tr.150] đạt đến các dạng tiền-kinh nghiệm của không gian và thời gian, do đó phủ nhận hiện tượng về khả tính lặp lại được chuyển dịch thành điều kiện khả tính của cái lý tưởng. Husserl phân biệt thêm nhận thức thực [real] và nhận thức quay [reel], hoặc nhận thức siêu việt và nhận thức nội tại. Husserl đặt định nhận thức nội tại là tuyệt đối và là điều kiện khả tính của nhận thức siêu việt. Điều này dẫn đến một loại ngôn trí trung tâm luận vốn quên mất nguồn gốc của nó là différance, cũng như đã thảo luận trước đó; nó mang tính phản-trực giác ở chỗ nhận thức nội tại là cấu thành tố [constitutor] duy nhất của nhận thức siêu việt chứ không phải là cái dấu vết, vốn là sự khác biệt tiên nghiệm, chính là điều kiện khả tính cho genesis căn nguyên siêu việt. Nhận thức, như Derrida lập luận, tìm thấy điều kiện khả tính của nó trong dấu vết, hay différance, và sự lặp lại của siêu việt trong cái kinh nghiệm. Nhận thức nội tại lặp lại nhận thức siêu việt và do đó làm nên trung gian của nó, chứ không chỉ được quyết định bởi trực giác siêu việt và tiền-kinh nghiệm. Cái siêu việt chỉ được tạo ra như là tách biệt và khác biệt với cái kinh nghiệm thông qua vận động ảo tưởng của différance, chính tính lặp lại tạo ra ảo tưởng về cái siêu việt và kinh nghiệm như là tách biệt thông qua vận động phân biệt của cái dấu vết, hoặc việc sản sinh ra sự khác biệt của nó từ dấu hiệu cội nguồn duy trì siêu hình học.

Phép quy giản được Husserl trình diễn nhiều lần để đạt đến các điều kiện thuần túy của tri thức, cái nội tại hoặc tiền-kinh nghiệm hợp nhất các hiện tượng rời rạc, nhận thức đa bội hoặc vật chất chết thành các nhất tính liên tục của các khách thể, do đó đưa hiện tượng học vào một aporia bí lối bằng cách vô hiệu hóa vận động của différance và khả tính lặp lại, vốn là các điều kiện chân thực của khả tính cho lý tưởng tính. Thật nghịch lý, phép quy giản lại là sự tái diễn và lặp lại của cái noema chứ không phải là sự cô lập của cái siêu việt thông qua việc phủ định cái kinh nghiệm. Phép quy giản chỉ có thể được thực hiện thông qua sự mô phỏng lại hoặc lặp lại này của noema, và do đó, để định nghĩa siêu việt mà không có kinh nghiệm sẽ đưa hiện tượng học vào một aporia bí lối. Cái siêu việt chỉ được tạo ra tách biệt với cái kinh nghiệm như một ảo ảnh, thông qua vận động hồi tưởng của cái dấu vết, do đó, phép quy giản hiện tượng học về cơ bản vô hiệu hóa các điều kiện khả tính của hiện tượng học bằng cách phủ định vận động của khả tính lặp lại. Thứ aporia bí lối này được giải quyết bằng cách Derrida giải thích về cận-siêu việt, đặt định mối quan hệ giữa khả tính lặp lại hoặc mô phỏng lại với sự khác biệt vốn tạo ra ảo tưởng rằng siêu việt và kinh nghiệm là khác biệt khi chúng giống nhau.

Như Derrida đã bàn đến trong Of Grammatology – Văn tự học, mọi thứ được biểu đạt đều đã ở vị trí của cái biểu đạt, và cái được biểu đạt chỉ tồn tại thông qua sự trung gian của nó với tư cách là cái biểu đạt để trở thành hiện hữu, do đó, sự phân biệt cứng nhắc giữa nhận thức siêu việt và nhận thức nội tại của Husserl theo nghĩa này, sẽ được chứng minh là có vấn đề. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề này sẽ không được coi là điều hiển nhiên. Người ta có thể đặt câu hỏi liệu cách đặt vấn đề này có cần thiết để đạt đến các điều kiện khả tính cho tri ​​thức hay không và liệu việc lý giải ấy về cái siêu việt trong hiện tượng học hay cái cận-siêu việt trong hậu-hiện tượng học có đưa ra được một cách lý giải thuyết phục hơn đối với một lý thuyết về tri ​​thức hay không. Người ta cũng có thể đặt câu hỏi liệu việc Derrida đặt định ra cái cận-siêu việt có cứu được hiện tượng học bằng cách đưa ra mối quan hệ động giữa chúng là différance và sự lặp lại hay không, khi mà cái lý tưởng phải khác với chính nó với tư cách là [tr.151] dấu ấn khởi nguyên thông qua sự lặp lại với một khác biệt cần được thể hiện. Điều này cho phép hiện tượng học chuyển từ tĩnh tại sang tạo sinh bằng cách đặt tên cho các điều kiện khả tính cho căn nguyên siêu việt. Đây là différance và không gian. Cái siêu việt chỉ được hình thành theo cách hồi tưởng thông qua sự lặp lại, vì sự lặp lại của nó được truyền đạt qua không gian và thời gian, vốn đảm bảo sự truyền tải của nó qua lịch sử. Cái siêu việt, hay huyền thoại của nó, luôn bị trì hoãn và chậm lại thông qua sự truyền đạt của nó đến chúng ta với bước chuyển qua của différance, điều này đảm bảo rằng tư duy sẽ luôn ‘xuất hiện’ khi cái siêu việt được tái-kích hoạt từ cội nguồn tuyệt đối của nó trong quá khứ thông qua sự lặp lại của nó trong hiện tại và tương lai.

9. ‘Epoche’/Treo lại với tư cách Hiện diện

‘Epoche’/Treo lại của Husserl không gì khác hơn là một phần/bộ phận ‘trầm tích’ hoặc ‘phản chiếu’ của phép ‘Quy giản Hiện tượng học’. Vậy là, cần nhận ra ‘Epoche’ thực sự là gì? Trước tiên, chúng ta phải hiểu ‘Quy giản Hiện tượng học’ là gì? Câu trả lời có thể là - ‘Quy giản Hiện tượng học’ là một loại phân tích – tổng hợp về một khách thể bên ngoài lên ý thức con người. Khách thể đang được xem xét trong khi được chủ thể (tôi) nhận thức, ánh sáng từ khách thể đó chiếu rọi vào ý thức và tạo ra một hình ảnh lên ý thức con người. Đó là ‘Noema’, như Husserl nói. Hơn nữa, ý thức con người vốn không hoạt động và kém hiệu quả cho đến khi & trừ khi ‘Tâm trí’ phản ánh về nó (Noema). Sau khi tâm trí con người phản ánh về ‘Noema’, chúng ta có được phép quy giản thứ hai của cái khách thể nói trên thành ‘Ý tưởng’ hoặc các ‘Hình thức của Ý tưởng’. Đây là ‘Noesis’, như Husserl nói. Ở giai đoạn này, ý thức chủ động của con người cố gắng quên đi cái khách thể căn cội ngoại tại và bận rộn phân tích cái ‘Noesis’ nói trên. Ở đây, toàn bộ quá trình phân tích ‘Noesis’ trở nên có ‘Tính ý hướng’. ‘Tâm trí’ càng tập trung cao độ vào ý thức, thì cái siêu việt của đối tượng dưới tình trạng ‘Epoche’/Treo lại sẽ càng mang tính ‘Tổng hợp’. Ở giai đoạn này, quá trình “Nội tại hóa Không gian Bên ngoài” (khách thể) sẽ diễn ra. Ở đây, toàn bộ đối tượng bên ngoài trở thành một loại xúc cảm/cảm giác về “mối quan hệ nhân quả không gian-thời gian”; và cuối cùng được quy giản thành một ý thức tổng hợp thuần túy của khách thể gốc. Đây là ‘Epoché/ Treo lại’, như Husserl giải thích khái niệm “Quy giản hiện tượng học” và như là ‘Epoché/ Treo lại’ đối với tôi là - “Linh hồn phản chiếu (Quang ảnh) của thế giới ngoại tại thông qua ý thức con người”; và sau khi phản chiếu từ ‘epoche’ ‘treo lại’, kết quả là ‘ý thức quang ảnh’, đến lượt nó trở thành “bản chất nhân hóa của sự hiện diện ngoại tại”, thông qua một loạt ‘phản ánh quang ảnh’.

10. ‘Ý tưởng’ như Sự hiện diện

Chúng ta thực sự thấy mình đang ở trong một thế giới khó hiểu. Chúng ta muốn hiểu những gì chúng ta thấy xung quanh mình và hỏi: Bản chất của vũ trụ là gì? Vị trí của chúng ta trong đó là gì và chúng ta và vũ trụ đến từ đâu? Tại sao nó lại như vậy? [P.152] Để cố gắng trả lời những câu hỏi này, chúng ta chấp nhận một “bức tranh thế giới” nào đó. Giống như một tòa tháp rùa vô tận nâng đỡ trái đất phẳng là một bức tranh như vậy, thì lý thuyết về “siêu dây” cũng vậy. Cả hai đều là lý thuyết về vũ trụ, mặc dù lý thuyết sau có tính toán học và chính xác hơn nhiều so với lý thuyết trước. Cả hai lý thuyết đều thiếu bằng chứng quan sát; chưa ai từng nhìn thấy một con rùa khổng lồ với trái đất trên lưng, nhưng rồi, cũng chưa ai nhìn thấy siêu dây. Tuy nhiên, lý thuyết về con rùa không phải là một lý thuyết khoa học tốt vì nó dự đoán rằng con người có thể rơi khỏi rìa thế giới. Những nỗ lực lý thuyết đầu tiên để mô tả và giải thích vũ trụ liên quan đến ý tưởng rằng các sự kiện và hiện tượng tự nhiên được điều khiển bởi các linh hồn có cảm xúc của con người, những linh hồn này hành động theo cách rất giống con người và không thể đoán trước. Những linh hồn này cư ngụ trong các khách thể tự nhiên, như sông và núi, bao gồm các thiên thể, như mặt trời và mặt trăng.

Mặt trời luôn mọc ở hướng đông và lặn ở hướng tây, bất kể có cúng tế thần mặt trời hay không. Hơn nữa, mặt trời, mặt trăng và các hành tinh đều đi theo những quỹ đạo chính xác trên bầu trời, có thể dự đoán trước với độ chính xác đáng kể. Mặt trời và mặt trăng vẫn có thể là các vị thần, nhưng chúng là những vị thần tuân theo các luật lệ nghiêm ngặt, rõ ràng là không có ngoại lệ, nếu người ta không tính đến những câu chuyện như mặt trời bị Hanuman (trong Ramayana, một sử thi Ấn Độ) bắt lấy và giấu dưới cánh tay của Người. Cho đến nay, hầu hết các nhà khoa học đều quá bận rộn với việc phát triển các lý thuyết mới mô tả vũ trụ là gì mà không đặt câu hỏi tại sao. Mặt khác, những người có nhiệm vụ hỏi - tại sao các nhà triết học lại không thể theo kịp sự tiến bộ của các lý thuyết khoa học? Vào thế kỷ XVIII, các nhà triết học coi toàn bộ kiến ​​thức của con người, bao gồm cả khoa học, là lĩnh vực của họ và thảo luận các câu hỏi như: Liệu vũ trụ có một Sự hiện diện xác định của riêng nó không? Nó có khởi đầu hay kết thúc? Liệu có khả tính nào tìm ra một giải pháp siêu hình độc đáo giúp nhân loại xác định sự hiện diện của vũ trụ và sự sáng tạo & các sinh vật sống, không sống cùng một lúc không?

Wittgenstein, nhà triết học nổi tiếng nhất thế kỷ XIX đã nói những từ tối hậu như sau: “Nhiệm vụ duy nhất còn lại của triết học là phân tích ngôn ngữ”. Theo ông, nếu chúng ta cố gắng phân tích ngôn ngữ của các cụm từ - God is omnipresent “Chúa hiện diện khắp nơi”, God is omniscient “Chúa là toàn tri”, với các ý tưởng cuối cùng của các cụm từ đó, thì chúng ta có thể dễ dàng cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong chúng ta. Với sự trợ giúp của các châm ngôn này của Wittgenstein, chúng ta cũng có thể phân tích ngôn ngữ của cụm từ - “Siêu hình học của Sự hiện diện”. Và nếu chúng ta có thể khám phá cụm từ nói trên, thì đó sẽ là chiến thắng của lý trí con người – vì khi đó trước tiên chúng ta phải cảm nhận được bản chất hiện diện của Chúa trong chúng ta cả về ngôn ngữ và tâm hồn. Và tôi nghĩ, để hiện thực hóa tốt hơn những ý tưởng cuối cùng về Chúa, thì có thể tiếp cận với một lý thuyết cú pháp tốt hơn, như ý tưởng về ‘Photosyntagmatics’ Quang ảnh-tổ hợp học. ‘Photosyntagm’ Quang ảnh-tổ hợp là sự trình bày lý thuyết hoặc theo nghĩa đen của ‘những ý tưởng có ý thức về quang ảnh’ của ‘hình tượng quang ảnh-ý thức về ánh sáng’ được tạo ra trong ‘Tâm trí’; kết quả sau khi phản ánh từ ‘epoché’ treo lại hoặc ‘Photo’ Quang ảnh; và ‘Photosyntagmatics’ Quang ảnh-tổ hợp học là phương pháp chuyển dịch các ý tưởng quang ảnh-ý thức thành các cấu trúc theo nghĩa đen có ý nghĩa với sự trợ giúp của photosyntagm quang ảnh-tổ hợp tương ứng, như tôi thấy.

[P.153] Sự hiện diện của con người trong thế giới sống này là một loại giọt mưa đơn lẻ (dưới dạng linh hồn) từ thiên đường. Và ‘Hiện tượng học’ cố gắng hình thành một quan điểm tự nhất quán và toàn diện về thế giới sau khi xem xét cẩn thận các khía cạnh và phạm vi khác nhau của trải nghiệm con người. Người ta cho rằng, nhiệm vụ của ‘Hiện tượng học’ không chỉ là những suy đoán siêu hình mà còn có ý nghĩa xã hội. Và chúng tôi cảm thấy nhiệm vụ của Nhà triết học là - tìm ra toàn bộ ý nghĩa của các phương án thay thế có ý nghĩa cho tương lai của nhân loại và tìm hiểu các khả tính hiện thực hóa chúng bằng một cách tiếp cận khoa học kịp thời hiệu quả, như Edmund Husserl và sau đó là Jacques Derrida đã nỗ lực. Các nhà tư tưởng hiện đại nói rằng, chỉ có ‘Thượng đế’ hoặc ‘Tuyệt đối’ mới không thể xác định sự hiện diện của một thực thể nào đó trong vũ trụ sống này trừ khi Tâm trí (M) mong muốn như vậy. Họ nói rằng, Tâm trí là thực thể thứ năm xác định sự hiện diện của một ai đó trong chính thế giới này. Dưới góc độ này, chúng ta có thể lấy một ví dụ từ ‘Upanishad’ nói rằng: - “Brahman lúc đầu là Một & Duy nhất; sau đó nó mong muốn là Nhiều; vậy là sau đó có được thế giới & vũ trụ”.

Một ví dụ khác trong ‘Kinh thánh’ nói rằng, “Adam là sinh vật sống đầu tiên của Vũ trụ; sau đó chàng khát khao được ăn trái cấm ngon lành và sau đó hòa nhập với Eva (sinh vật nữ thứ hai do Chúa phái đến) và sau đó có được gia đình”. Từ những ví dụ siêu hình này, chúng ta thấy rằng, ham muốn của con người cũng là một yếu tố quyết định vị trí của một người trong chính thế giới con người sống động này; và khát khao của đấng Tuyệt đối là đấng Tuyệt đối; nếu không có khát khao của đấng ấy, thì người ta không thể di chuyển khỏi bất cứ nơi đâu.

11. Hòa âm theo nghĩa đen

Ngôn ngữ đòi hỏi một cấp độ kép chuyển từ nghĩa cũ sang nghĩa mới, tạo ra những gì chúng ta không biết từ những gì chúng ta biết. Vận động này chính xác là vận động của sự tổng hợp và phóng chiếu, đưa chúng ta từ ý nghĩa của một từ đơn sang ý nghĩa của tổ hợp được phóng chiếu. Và khó khăn này hầu như không tồn tại đối với Husserl. Vốn là một nhà toán học và vật lý, Husserl, giống như Descartes, đã bị làm phiền bởi sự nhầm lẫn giữa ‘ngôn ngữ’ là ‘Concert-o-Déconcert’ (một cách tiếp cận Giải cấu trúc luận Derridian) (Manas, 2010) và đám hỗn độn các quan điểm ​​tồn tại trong triết học. Rõ ràng, triết học ‘vẫn chưa phải là một khoa học’, và điều này khiến Husserl đưa ra hiện tượng học của mình như một nỗ lực để biến triết học thành một ‘khoa học nghiêm ngặt’. Do đó, theo quan điểm của một ‘khoa học nghiêm ngặt’, thuật ngữ ‘Photosyntagm’ quang ảnh-tổ hợp có thể được giải thích là sự trình bày lý thuyết hoặc theo nghĩa đen của ‘những ý tưởng có ý thức về ánh sáng’, xuất phát từ sự phản ánh từ ‘epoché’ hoặc ‘Photo’ (đối với tôi). Và ‘Photo-syntagmatics’ Quang ảnh-tổ hợp học có thể là phương pháp dịch ‘những ý tưởng có ý thức về quang ảnh’ thành các cấu trúc theo nghĩa đen có nghĩa với sự trợ giúp của photosyntagm quang ảnh-tổ hợp tương ứng: như tôi thấy. Và nỗ lực của Derrida hướng tới việc giải cấu trúc sự hình thành tổ hợp Ngôn ngữ nếu áp dụng đối với Photosyntagm Quang ảnh-tổ hợp, có thể dẫn đến một nhận thức hướng tới việc Giải-hòa hợp hình thành Ngôn ngữ của nó, bằng cách hòa hợp các cấu trúc quang ảnh-tổ hợp của chúng. [P.154] Do đó, thuật ngữ Giải-hòa hợp ‘Déconcert’ (Manas, 2010) có thể được khái niệm hóa như sau: một Phương pháp Triết học để đánh giá các hòa-hợp-phản-chiếu-hiện- tượng, xuất phát từ sự ‘hòa hợ-p’ của hai (2) hoặc nhiều tổ hợp hơn, tất cả cùng một lúc.

12. Pheno → Ảnh → Chuyển đổi Từ

Tiền tố “pheno-“ bắt nguồn từ từ tiếng Hy Lạp φαίνω phainein, có nghĩa là “tỏa sáng”, “xuất hiện” hoặc “đưa ra ánh sáng”; được sử dụng để chỉ điều gì đó có thể quan sát được hoặc biểu hiện ra; trong triết học Husserl, thuật ngữ “phenol” ám chỉ “thứ xuất hiện, trình hiện ra” hoặc “hiện tượng”, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “phainomenon”; đây là thuật ngữ trung tâm trong hiện tượng học của Husserl, nghiên cứu về cấu trúc của trải nghiệm và ý thức, cụ thể là cách mọi thứ xuất hiện với chúng ta. Trong hiện tượng học của Edmund Husserl, sự chuyển đổi từ “pheno”/trải nghiệm sang “photo”/hình ảnh sang “word”/mô tả [không phải là một tiến trình tuyến tính mà là một sự tương tác phức tạp; hiện tượng học khám phá các cấu trúc của ý thức và cách thức mà mọi thứ xuất hiện với chúng ta; cách tiếp cận của Husserl nhấn mạnh vào việc mô tả các trải nghiệm như chúng được đưa ra, không có tiền đề; điều này bao gồm một quá trình phản ánh về các trải nghiệm của chúng ta, bỏ ngoặc các giả định của chúng ta về thế giới ngoại tại, và sau đó mô tả các đặc điểm thiết yếu của những gì xuất hiện trong ý thức; tiền tố “pheno-“ bắt nguồn từ từ tiếng Hy Lạp φαίνω phainein, có nghĩa là “tỏa sáng”, “xuất hiện” hoặc “đưa ra ánh sáng”; được sử dụng để chỉ điều gì đó có thể quan sát được hoặc biểu hiện ra; trong triết học Husserl, thuật ngữ “phenol” ám chỉ “thứ xuất hiện, trình hiện ra” hoặc “hiện tượng”, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “phainomenon”; đây là thuật ngữ trung tâm trong hiện tượng học của Husserl, nghiên cứu về cấu trúc của trải nghiệm và ý thức, cụ thể là cách mọi thứ xuất hiện với chúng ta. HHN] (tức là nghĩa đen) sự hòa hợp biến đổi, tôi đã nhận được ánh sáng từ phát minh bất diệt của Husserl ‘epoché’ treo lại. Giống như trong trường hợp của cơ chế ‘Photosynthesis’ Quang ảnh-tổng hợp, lá cây chuẩn bị & tiếp nhận vật liệu thức ăn của chúng thông qua ánh sáng mặt trời; giống như tất cả các loại hình Văn chương tiếp nhận vật liệu thức ăn chủ quan của chúng dưới dạng các ý tưởng nghĩa đen mới, thông qua cơ chế Husserlian vĩnh cửu này của ‘epoché’ treo lại, hoặc, đối với tôi, nó có thể được hiểu rõ ràng hơn là photo-mechanism “cơ chế quang ảnh”. Đó là một loại động lực của ‘epoché’ treo lại hay đúng hơn là Photo Dynamics Động lực học Quang ảnh. Đối với ‘Giải cấu trúc’, phương pháp của nó thường là lấy các đối lập nhị phân trong một văn bản - bên trong và bên ngoài hoặc chủ thể và khách thể, mà ông lập luận là được xác định về mặt văn hóa và lịch sử, thậm chí phụ thuộc lẫn nhau - và chỉ ra rằng chúng không rõ ràng hoặc ổn định như thoạt đầu có vẻ thế, và hai khái niệm đối lập đó mang tính linh hoạt, sau đó sử dụng sự mơ hồ này để chỉ ra rằng ý nghĩa của văn bản cũng là linh hoạt.

Tính lưu động này là di sản của siêu hình học truyền thống [tức là Platonist] dựa trên các đối lập, tìm cách thiết lập tính ổn định của ý nghĩa thông qua các khái niệm tuyệt đối. Kết quả là tìm ra những cách thức diễn giải văn bản mới lạ đáng kinh ngạc, đến mức là những người ủng hộ Derrida khẳng định rằng tác phẩm của ông bao gồm các cách đọc tỉ mỉ tìm ra triết học mới. Trên thực tế, không có “ý nghĩa” nào là ổn định: thay vào đó, điều duy nhất duy trì cảm giác nhất tính trong một “văn bản được bỏ trong ngoặc” là thứ mà Derrida gọi là “siêu hình học của sự hiện diện”, trong đó hiện diện được trao đặc quyền chân lý — vì lý do đơn giản là người ta không thể cùng lúc tái cấu trúc nhiều hơn là chỉ “bỏ trong ngoặc” hoặc phép quy giản eidetic thị niệm nhưng theo tôi, người ta có thể giải cấu trúc toàn bộ đặc điểm của chúng theo hướng tái cấu trúc phổ quát của một cấu trúc hiện tượng học-quang ảnh [photo-phenomenological structure] chỉ thông qua sự hòa hợp của các thành phần cấu thành tổ hợp của chúng. Và do đó, Déconcert Giải hòa hợp từ đặc điểm triết học, có thể được giải thích là: lý thuyết về việc nuôi dưỡng syntagms các tổ hợp bằng Photo Dynamics Quang ảnh Động học, bằng cách hòa hợp với [các] hình thức văn chương phù hợp, tạo ra và sử dụng tất cả cùng một lúc. [‘Photosyntagm Quang ảnh Tổ hợp’ là kết quả được nuôi dưỡng & hòa hợp của một tổ hợp - đây là một ví dụ về trò chơi Déconcert Giải-hòa hợp được thực hiện bởi Photo-mechanism “Cơ chế quang ảnh” — loại động lực của ‘epoché’ treo lại — “Photo Dynamics Quang ảnh Động học”].

Kết luận

[P.155] Khi nghiên cứu lại khái niệm vĩnh cửu ‘epoché’ treo lại của Edmund Husserl thông qua sự hòa hợp Pheno→Photo→Word [Hiện tượng – Quang ảnh – Từ ngữ], người ta có thể tái khám phá rất nhiều ánh sáng mang tính chiều góc mới hướng đến trở thành hiện thân của một chiều góc Hiện tượng học→ Giải cấu trúc→ Giải hòa hợp mới. Trong bài viết này, tôi đã xem xét các điều kiện khả tính cho sự tồn tại lâu dài của hiện tượng học thông qua một mô tả về việc Derrida truy vết ngược về các cội nguồn của siêu hình học, trong đó có tính đến différance, sự khác biệt động và tiên nghiệm giữa cái siêu việt và kinh nghiệm được dịch thành hư không. Điều này giải thích cho các điều kiện khả tính của siêu hình học và phương thức sản xuất của nó thông qua khái niệm khả tính lặp lại. Nó được dịch thành sự lặp lại với một sự khác biệt duy trì sự khác biệt giữa cái siêu việt và kinh nghiệm với tư cách hư không và trở thành dấu vết của các dấu vết có thể lặp lại, vốn duy trì ảo tưởng rằng cái siêu việt và kinh nghiệm là khác biệt khi trên thực tế, chúng giống nhau và có thể hoán đổi cho nhau. Khái niệm-siêu hình của Derrida về différance chứng minh rằng sự phân biệt siêu việt-kinh nghiệm, hyle-morphe, noema-noesis là một ảo tưởng và sự khác biệt phân chia chúng là một sự khác biệt hư không.

Là một dấu vết cơ bản của các dấu vết có thể lặp lại, nó tạo ra cái siêu việt và kinh nghiệm thông qua trò chơi của những khác biệt mà trên thực tế, không phân chia bất cứ thứ gì. Điều này là do cái siêu việt được dịch thành cái kinh nghiệm; aporia bí lối cơ bản của siêu hình học là ở chỗ sự phân chia tách biệt cái siêu việt và kinh nghiệm cuối cùng là sự lặp lại của nó với tư cách cái giống hệt, hoặc khả tính lặp lại. Nhà viết kịch kiêm tiểu thuyết gia Albert Camus mắc nợ Husserl rất nhiều, cũng như các nhà thần học như Martin Buber và Paul Tillich. Hiện tượng học cũng có thể được coi là tiền thân của các trào lưu triết học khác, bao gồm hậu cấu trúc, hậu hiện đại, giải cấu trúc, và thậm chí là các xu hướng được chọn trong truyền thống phân tích có thể vận hành cho Cuộc khủng hoảng Hiện tại của Hiện tượng học Siêu việt cũng như đóng góp nỗ lực chung của họ để khám phá các chiều kích mới của Hiện tượng học Siêu việt, cuối cùng có thể giúp mở ra các Chiều kích siêu việt mới để đáp ứng Cuộc khủng hoảng Thế kỷ 21 có thể xảy ra trước.Và “Chuyển đổi Hiện tượng học Husserl” chỉ là một nỗ lực hướng tới việc khám phá siêu hình học kết quả của Triết học Giải cấu trúc của Derrida trong thời đại hiện nay. Trên hết, đó là một nỗ lực hướng tới việc tái tư duy về Hiện tượng học của Husserl một cách khoa học hơn sau Giải cấu trúc của Derrida; và mở ra các chiều kích Giải cấu trúc mới — Một trong những chiều kích mới của nó có thể được trình hiện là “Quang ảnh-Hiện tượng học”; và có thể được đưa ra như một nhánh mới của Triết học thuộc Trường phái mới: Concertive Humanities Khoa học nhân văn Hòa hợp; đặt nền tảng cho nghiên cứu chiều góc mới về trí tuệ của triết học khoa học-triết hậu hiện đại thế kỷ 21.

______________________________________

Nguồn: Roy Manas (2010). Transforming of Husserlian Phenomenology, Filosofía UIS, Volumen 9, Número 1, Enero - junio de 2010, pp. 131 – 157.

References

Husserl, E. (1931). Ideas: General Introduction to Pure Phenomenology. Translated by- Gibson, New York: MacMillan Co.

Kolakowski, Leszek (1987). Husserl and the Search for Certitude, University of Chicago Press.

Kolakowski, Leszek (2004). For What Tomorrow. A Dialogue with Elisabeth Roudinesco. Stanford University Press 2004.

Hubert L. Dreyfus & Paul Rabinow (1983). Michel Foucault: Beyond Structuralism and Hermeneutics, The University of Chicago, USA: Press.

Hubert L. Dreyfus & Paul Rabinow (1973) Speech and Phenomena, and Other Essays on Husserl’s Theory of Signs. (1973). Trans. by David B. Allison, Evanston: Northwestern University Press.

Stiegler, Bernard. Derrida and Technology: Fidelity at the Limits of Deconstruction and the Prosthesis of Faith, Nacques Derrida and the Humanities, In: Tom Cohen (ed.), (ISBN 0-521-62565-3).

Ströker, Elisabeth (1993). Husserl’s Transcendental Phenomenology, Stanford: Stanford University Press.

Dreyfus, Hubert (ed.) (1982). Husserl, Intentionality, and Cognitive Science, Cambridge, MA: MIT Press.

Dreyfus, Hubert (1982), Noema and Meaning in Husserl, Phenomenology and Philosophical Research, 50: 263-271.

Dreyfus, Hubert (1982), Husserl’s Theory of the Intentionality of Consciousness, in: Dreyfus (ed.) 1982.

Schütz, Alfred (1966). The Problem of Transcendental Intersubjectivity in Husserl,” In: Collected Papers III, The Hague: Nijhoff.

Norris, Christopher (1982). Deconstruction: Theory and Practice.

Thomas, Michael (2006). The Reception of Derrida: Translation and Transformation.

Eyes of the University: Right to Philosophy 2, trans. Jan Plug (Stanford: Stanford University Press, 2004).

Of Grammatology, trans. Gayatri Chakravorty Spivak: Johns Hopkins University Press (1976)

Lawlor, Leonard (2002). Derrida and Husserl: The Basic Problem of Phenomenology, Indiana: Indiana University Press.

Stephen W. Hawking (1992). A Brief History Of Time. Bantam Press, Transworld Publishers Ltd. Great Britain.

Stephen W. Hawking (1992). The Theory Of Everything. Publisher: Phoenix Books.

Roy, Manas (2008). Derrida’s Philosophical Déconstruction, Transcendent Philosophy Journal, Vol.9, Dec.2008 edition, pp.237-246.

Roy, Manas (2010). Phenomenological Existentialism, Think, Vol.9, Issue 24, pp 51-63, Published by: The Royal Institute of Philosophy; Cambridge University Press, U.K.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2025

Chuyển đổi của Hiện tượng học Husserlian (II)

Manas Roy

Người dịch: Hà Hữu Nga

4. ‘Sự bất đồng quan điểm’ của Derrida với Husserl

Sự bất đồng quan điểm của Derrida với Husserl, trong Speech and Phenomena – Diễn ngôn và các Hiện tượngIntroduction to Origin of Geometry – Giới thiệu Nguồn gốc Hình học, diễn ra dưới dạng một sự thay thế không-đồng nghĩa. Các thay thế không-đồng nghĩa đối với Derrida trong bài luận Différance là các thuật ngữ như pharmakon, supplement, arche-writing, trace, protowriting, reserve, những thứ có nghĩa khác nhau trong các bối cảnh khác nhau nhưng thực hiện cùng một chức năng trong tác phẩm của Derrida là đặt tên cho aporia [Trong triết học, aporia ᾰ̓πορῐ́ᾱ, nghĩa đen là “bí lối”, cũng có nghĩa là “bế tắc”, “khó đi qua”, “bối rối”, là một câu đố hoặc trạng thái khó xử. Trong phép tu từ, đây là một tuyên bố nghi ngờ, được đưa ra vì mục đích tu từ và thường là giả vờ. Khái niệm aporia chủ yếu thấy trong triết học Hy Lạp cổ đại, nhưng nó cũng có vai trò trong triết học hậu cấu trúc hiện đại, như trong các tác phẩm của Jacques Derrida và Luce Irigaray, và nó cũng đóng vai trò là một công cụ khảo sát trong triết học phân tích. HHNG] diễn ra trong các bối cảnh khác nhau, nơi có sự ám ảnh không thể tránh khỏi về sự hiện diện bởi không-hiện diện và cái cấu trúc lớn hơn thuộc về các thuật ngữ.

Trong tác phẩm của Derrida, các aporia hay sự dịch chuyển này được tạo ra như một ‘chuỗi’ ‘những thay thế không-đồng nghĩa’ trong đó sự khác biệt làm trì hoãn và phân biệt chính nó theo những cách khác nhau phù hợp với [tình huống ngữ cảnh trong đó đòi hỏi phải có chuyển động của nó: khi đọc Plato, chẳng hạn, Derrida tìm thấy dấu vết của sự khác biệt được ghi trong tư tưởng về chữ viết pharmakon - có nghĩa vừa là ‘thuốc độc’ vừa là ‘phương thuốc chữa bệnh’]; trong Rosseau, nó xuất hiện như ‘phần bổ sung’ (có nghĩa vừa là ‘phần bị thiếu vừa là phần thừa’); trong Mallarme, như ‘màng trinh’ [chỉ cả ‘bên trong và bên ngoài’, ‘trinh nguyên và viên mãn’]; và thậm chí khi ông giải thích différance dưới dạng ‘tên riêng’ của nó, thì cách giải thích này [tr.141] chỉ được thực hiện thông qua việc ngụy trang thành những tên gọi khác [‘dự trữ’, ‘dấu vết’, ‘cổ-dấu vết’ và ‘cổ-tác/cổ-văn tự’, v.v.], mỗi tên gọi có thể đại diện cho chuyển động này trong một ngữ cảnh nhất định, nhưng không có cái nào trong số đó - kể cả ‘différance’ - có thể khẳng định thẩm quyền đối với hệ thống mở mà nó hoạt động và thông qua đó các hiệu ứng của nó được tạo ra và phát tán. Cách đọc của Derrida khẳng định rằng chính différance và sự lặp lại cấu thành nên cái Tuyệt đối chứ không phải là cái siêu việt/tiên nghiệm [the transcendental]. Cách đọc như vậy giải thích cho sự tồn tại vĩnh cửu của cái Tuyệt đối qua thời gian và lịch sử, vì cái Tuyệt đối phải được tái-kích hoạt thông qua sự lặp lại của nó trong hiện tại và tương lai để duy trì chính nó qua không gian và thời gian. Tình trạng trì hoãn và chậm lại này qua không gian và thời gian là sự chuyển tiếp của différance mà cái Tuyệt đối, hay huyền thoại của nó, phải trải qua để được truyền đạt từ thể chế của nó trong quá khứ đến hiện tại và tương lai. Nguồn gốc tuyệt đối này chỉ được tạo ra theo cách hồi tưởng thông qua chuyển động phân biệt của sự khác biệt và dấu vết. Cách đọc của Derrida phát triển và khẳng định theo khuôn khổ Hegelian chứ không phải là một mâu thuẫn hay bất đồng. Mâu thuẫn và bất đồng, theo khuôn khổ Hegelian, nên được thay thế bằng các cụm từ như quá trình & tiến hóa hay quá trình.

5. Cách hiểu bắt nguồn từ Hegel

Quan điểm càng đương đại thì càng coi sự đối lập giữa chân và giả là cứng nhắc, càng mong đợi rằng mọi hệ thống triết học nhất định phải được xác nhận hoặc phản đối, thì càng coi mọi lời giải thích về hệ thống như vậy chỉ là chân hoặc giả. Quan điểm này không coi tính đa dạng của các hệ thống triết học là sự phát triển tiến bộ của chân lý; nó chỉ thấy mâu thuẫn trong tính đa dạng đó. Nụ biến mất khi hoa nở, vì vậy người ta có thể nói rằng hoa mâu thuẫn với nụ. Tương tự như vậy, quả tuyên bố hoa là sự tồn tại giả tạo của cây và bước lên thay thế nó như là chân lý của cây vậy. Những hình thức này không chỉ riêng biệt; chúng bác bỏ nhau theo cung cách loại trừ nhau. Đồng thời, bản chất lưu động của chúng biến chúng thành những khoảnh khắc của một nhất tính hữu cơ, trong đó chúng không chỉ không đấu tranh với nhau mà còn cần thiết như nhau; và chỉ có sự cần thiết ngang bằng này mới cấu thành nên sự sống của cái toàn thể. Quan điểm phổ biến về triết học cho rằng hai tuyên bố mâu thuẫn, hoặc các học thuyết triết học loại trừ lẫn nhau. Chỉ một trong số đó có thể chân, trong khi cái kia là giả. Hegel đề xuất một quan điểm khác theo đó các học thuyết triết học xung đột đều là những thành phần động hoặc ‘khoảnh khắc’ của Chân lý, mỗi khoảnh khắc nhấn mạnh một khía cạnh duy nhất, một phần của toàn bộ chân lý. Do đó, Chân lý là hữu cơ và tiến hóa; mỗi ‘khoảnh khắc’ của chân lý là sự phát triển tiến bộ hướng tới toàn bộ Chân lý hoặc Tuyệt đối. Do đó, mỗi ‘khoảnh khắc’ của chân lý đại diện cho một chân lý cấu thành trên con đường trưởng thành và phát triển của cái Tuyệt đối. Mâu thuẫn và bất đồng với tư cách là mối quan hệ giữa các nhà triết học cần được [tr.142] tái định hình thành sự phát triển hướng tới sự tổng hợp của chân lý tiến bộ vì đây là mô tả chính xác hơn về những gì thực sự diễn ra khi một nhà triết học ‘bất đồng’ với một nhà triết học khác, về cơ bản các nhà triết học không bác bỏ lý thuyết hoặc hệ thống của nhau vì các phẩm chất hình thức của sự biểu hiện cái Tuyệt đối luôn được duy trì. Cái Tuyệt đối chỉ mang những hình thức khác nhau khi mỗi nhà triết học phát triển mối quan hệ giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm thành mỗi hình dạng khác nhau nhưng về cơ bản đây là sự lặp lại của cùng một tiên đề và chân lý cơ bản. Liệu công thức hiện tại của sự bất đồng có nắm bắt chính xác những gì đang bị đe dọa khi cái gọi là sự bất đồng nảy sinh giữa các nhà triết học không?

Theo Hegel, sự bất đồng chỉ diễn giải một nửa câu chuyện, vì các phẩm chất hình thức của các triết học thay thế đã phát triển, chẳng hạn như sự khác biệt kinh nghiệm siêu việt/tiên nghiệm vẫn giữ nguyên thay vì chia tách. Hơn nữa, mỗi nhà triết học phát triển và thúc đẩy dần dần khái niệm về mối quan hệ giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm bằng cách cung cấp cho chúng một hình dạng, hình thái mới và phát triển nó thành các hệ thống mới về cơ bản có chung một nguyên tắc với cái Tuyệt đối. Liệu có thực sự có sự bất đồng giữa các nhà triết học khi các phẩm chất hình thức trong công thức của họ vẫn giữ nguyên, dưới dạng sự khác biệt kinh nghiệm siêu việt/tiên nghiệm? Sự khác biệt hoặc bất đồng giữa các nhà triết học nằm ở cấp độ hình thức và vẻ bề ngoài hơn là bản chất. Nguyên tắc cơ bản của cái Tuyệt đối vẫn giữ nguyên. Không có sự khác biệt nào tồn tại giữa các nhà triết học khi họ là sự lặp lại nguyên tắc của cái Tuyệt đối. Do đó, không có sự bất đồng hoặc mâu thuẫn nào nảy sinh giữa các nhà triết học. Vì vậy, việc Derrida tái công thức hóa khác biệt kinh nghiệm/tiên nghiệm-siêu việt trong các khái niệm différance và dấu vết của ông có gây mâu thuẫn hay tiếp tục phát triển các nhà triết học trước đó không? Theo nhiều nghĩa, Derrida khẳng định và phát triển triết học bằng cách khám phá ra rằng mối quan hệ cơ bản giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm là mối quan hệ lặp lại với sự khác biệt vì sự khác biệt tiên nghiệm tạo ra sự phân biệt ảo tưởng giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm trong sản xuất mang tính sân khấu thông qua chuyển động phân biệt của différance và dấu vết. Derrida cũng khám phá ra rằng sự khác biệt vốn phân biệt giữa siêu nghiệm/tiên nghiệm và kinh nghiệm là một sự khác biệt hư không.

Công thức này của siêu việt và kinh nghiệm không mâu thuẫn hay không bất đồng với các lập luận trước đó của các nhà triết học mà phát triển và khẳng định nó bằng cách khám phá ra các điều kiện khả tính của nó—différance và dấu vết là các điều kiện khả tính cho việc công thức hóa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm. Những cái siêu việt và kinh nghiệm này không phải là các thực thể tách biệt và được vật thể hóa về mặt hữu thể luận mà là những lặp lại với một sự khác biệt hoặc các dấu vết. Sự khác biệt hư không được giả định bởi hiện tượng học ngay từ đầu ở chỗ hiện hữu của nó là điều kiện khả tính cho phép quy giản hiện tượng học. Derrida khám phá ra rằng điều kiện khả tính cho sự khác biệt tiên nghiệm là ở chỗ đó là một khác biệt được dịch thành hư không vì nó phân biệt hư không và tách biệt khỏi hư không. Do đó, cái chết nằm ở trung tâm của sự sống và Hiện tại Sống động, cấu thành nó, tạo ra nó thông qua dấu vết phân biệt mà từ đó hiện diện và vắng mặt, hiện hữu và không hiện hữu phát sinh. Đây là cái aporia – bí lối của hiện tượng học—cái chết cấu thành sự sống. Derrida cũng xem xét cái aporia cho thấy sự phân biệt siêu việt/tiên nghiệm-kinh nghiệm [tr.143] đơn giản là không cho phép quy giản hiện tượng học diễn ra, và giải quyết những mâu thuẫn này trong hiện tượng học của Husserl thông qua việc ông đặt định cái cận-siêu việt/tiên nghiệm [the quasi-transcendental], hay cái kinh tế và sự lặp lại của cái cận-siêu việt/tiên nghiệm trong kinh nghiệm. Những người chỉ trích Derrida đã nhầm lẫn khi phân loại Derrida là một người kinh nghiệm luận và một kẻ hư vô luận. Differance và dấu vết không phải là những khái niệm kinh nghiệm. Differance và dấu vết là một sự khác biệt tiên nghiệm mà từ đó nảy sinh ra những khác biệt và các xác định tiếp theo của cái ảo tưởng về sự khác biệt kinh nghiệm siêu việt. Hậu-hiện tượng học của Derrida giải quyết các vấn đề cơ bản của hiện tượng luận [phenomenalism] và duy ngã luận mà một lý giải siêu việt/tiên nghiệm duy nhất về genesis nguồn cội/sáng thế đã đưa dẫn hiện tượng học đến đó. Cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm chỉ khác nhau về tên gọi và được tạo ra theo cách thức sân khấu vì khác biệt thông qua sự chuyển động của différance và dấu vết.

Cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm, cùng với ảo tưởng rằng chúng là riêng biệt, nảy sinh từ chuyển động của khả tính lặp lại, vốn tái kích hoạt noema và duy trì nó qua thời gian và lịch sử. Các lập luận của Derrida là sự phát triển hướng tới cái Tuyệt đối bằng cách khám phá ra các điều kiện tiên nghiệm về khả tính cho sự phân biệt cái siêu việt/tiên nghiệm kinh nghiệm như là sự lặp lại với sự khác biệt và sự khác biệt tiên nghiệm, hay différance, như một sự khác biệt được dịch thành hư không. Do đó, Derrida mâu thuẫn hay khẳng định và phát triển triết học? Tôi thiên về quan điểm sau vì Derrida xem xét các điều kiện khả tính cho sự [tái] sản xuất cái Tuyệt đối, được hình thành theo cách thức hồi tưởng thông qua hành động lặp lại, báo hiệu về một nguồn gốc hẳn đã tồn tại nhưng chưa bao giờ hiện hữu ở đó, thông qua chuyển động của khả tính lặp lại và sự khác biệt. Sự thay thế không-đồng nghĩa của Derrida đối với tư tưởng của Husserl không mâu thuẫn mà phát triển hiện tượng học của ông bằng cách xem xét chính các điều kiện khả tính cho chủ nghĩa duy tâm siêu việt/tiên nghiệm của Husserl, đặt định các điều kiện này với tư cách là khác biệt và khả tính lặp lại. Thông qua sự thay thế không đồng nghĩa của mình đối với différance, Derrida khám phá ra rằng sự khác biệt tiên nghiệm, hay sự khác biệt được dịch thành hư không, vốn chia tách cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm, chính là điều kiện khả tính cho hiện tượng học. Do đó, rất nghịch lý là, sự bất đồng của Derrida với Husserl không phá hủy mà lại khẳng định và là một cuộc khảo sát siêu-hiện tượng học về các điều kiện khả tính cho dự án của Husserl. Husserl đặt định các điều kiện khả tính cho tri ​​thức nhận thức là cái tiên nghiệm, hay cái siêu việt và cái noema cấu thành cái hiện thực bằng cách cấu trúc nhận thức thành các thể thống nhất mạch lạc, ví dụ như cung cấp cho các ấn tượng rời rạc các thuộc tính của không gian và thời gian. Tuy nhiên, lý giải về cấu trúc siêu việt này không nói gì về phương pháp mà siêu hình học được duy trì và tự duy trì thông qua sự trôi chảy của thời gian và lịch sử. Vậy thì điều kiện của khả tính cho cấu thành siêu việt phải là gì? Derrida truy vết nguồn gốc của cái siêu việt đến cái dấu vết, hay cái hư không phân tách cái siêu việt và kinh nghiệm, từ đó phát sinh thêm các dấu vết phân biệt. Cái dấu vết, hay différance, cái hư không nằm giữa cái siêu việt và cái kinh nghiệm, từ đó sự phân biệt tạo ra hiện diện và vắng mặt, hiện hữu và hư không phát sinh, chính là sự khác biệt và điều kiện tiên nghiệm duy trì siêu hình học chứ không chỉ duy nhất là cái siêu việt/tiên nghiệm.

Một lý giải siêu việt/tiên nghiệm về cấu thành không nói gì về genesis tạo sinh/sáng thế cùng việc sản xuất và duy trì siêu hình học. Làm thế nào mà cái Tuyệt đối [tr.144] được lưu truyền qua lịch sử? Cái Noema siêu việt/tiên nghiệm phải được lặp lại và truyền tải thông qua différance để có thể được truyền đạt. Sự khác biệt tiên nghiệm, hay différance, là điều kiện khả tính cho tạo sinh/sáng thế siêu việt/tiên nghiệm và sản xuất siêu hình học. Cái siêu việt/tiên nghiệm được tạo ra theo cung cách sân khấu khi tách biệt khỏi kinh nghiệm thông qua chuyển động phân biệt của différance và cái dấu vết. Tuy nhiên, sự khác biệt a priori tiên nghiệm này, hay différance, là một sự khác biệt hư không và phân biệt hư không vì siêu việt và kinh nghiệm chỉ là những cái tên lịch sử bắt nguồn từ siêu hình học. Cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm là những sự phân biệt ảo tưởng và là các sản phẩm sân khấu của siêu hình học, chỉ khác nhau về tên gọi là sự lặp lại với một sự khác biệt, nhưng mỗi sự lặp lại đều khác biệt và tách biệt khỏi dấu hiệu ban đầu, được tạo ra như cái dấu vết. Derrida đặt câu hỏi về ý tưởng cho rằng sự cô lập của siêu việt/tiên nghiệm thông qua hành động quy giản hiện tượng học dẫn đến việc giải thích các điều kiện khả tính cho tri ​​thức như là cái tuyệt đối a priori tiên nghiệm. Phép quy giản này phủ nhận chuyển động của khả tính lặp lại, hoặc lặp lại với một sự khác biệt so với dấu hiệu ban đầu, vốn là phương thức sản xuất đối với siêu hình học. Cái siêu việt/tiên nghiệm chỉ được phân biệt với cái kinh nghiệm như một ảo ảnh thông qua chuyển động tái tạo của cái dấu vết, và do đó phép quy giản vô hiệu hóa chuyển động lặp lại và khác biệt này, hay différance, vốn là điều kiện khả tính đối với siêu hình học. Phép quy giản hiện tượng học phủ nhận sự khác biệt tiên nghiệm, hay différance, vốn cần thiết để giải thích cái cách thức mà siêu hình học duy trì chính nó. 

Cái siêu việt/tiên nghiệm chỉ được tạo ra tách biệt với kinh nghiệm bằng ảo tưởng về sự khác biệt xảy ra thông qua chuyển động của différance, do đó, biểu hiện không có chỉ định, được biểu đạt mà không có cái biểu đạt, lý tưởng mà không có hiện thực trở thành một tiên đề không mạch lạc. Derrida không tranh cãi về tính thiết yếu của phép quy giản hiện tượng học để đạt đến các điều kiện chân của tri ​​thức, nhưng lập luận rằng nó đảo ngược hoặc hủy bỏ chuyển động của khả tính lặp lại. Khả tính lặp lại là sự lặp lại tạo nên tính lý tưởng và cho phép nó trở thành hiện hữu. Chính khả tính lặp lại và sự lặp lại tạo nên tính lý tưởng chứ không phải là cái siêu việt/tiên nghiệm vì cái lý tưởng phải khác với chính nó thông qua sự lặp lại để trở nên hiện hữu. Như Derrida lập luận, phép quy giản là sự tái-kích hoạt của cái noema, chứ không phải là sự phủ định của nó. Phép quy giản là một sản phẩm sân khấu và ảo tưởng tạo ra cái siêu việt/tiên nghiệm tách biệt với kinh nghiệm, do đó đặt ra siêu việt mà không có kinh nghiệm vì sự trung gian của nó trở thành một tiên đề không mạch lạc. Cái vấn đề liên quan đến một lý giải siêu việt/tiên nghiệm về cấu thành là ở chỗ nó không giải thích được tạo sinh/sáng thế cũng như sản xuất và duy trì siêu hình. Siêu-hiện tượng học của Derrida, với lý giải của ông về différance và khả tính lặp lại như các điều kiện khả thi cho hiện tượng học, đưa ra một lý giải như vậy. Khả tính lặp lại là nguyên lý mà phép quy giản bị phủ định và cho phép—chính xác là điều khiến cái siêu việt/tiên nghiệm, kinh nghiệm và sự phân chia giữa chúng có thể giải cấu trúc được vì nó cho phép sự phủ định của chính nó và thực hiện sự lặp lại của chính nó. Chính nguyên lý lặp lại trong khả tính đảo ngược của phép quy giản và khả năng đồng thời cho phép nó làm cho cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm có thể giải cấu trúc được.

Điều này đưa chúng ta đến một lĩnh vực gây bất đồng của Derrida đối với Husserl. Husserl nhấn mạnh vào sự phân biệt cứng nhắc giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm để thể chế hóa chủ nghĩa duy tâm siêu việt/tiên nghiệm [tr.145] của ông như là điều kiện khả tính cho tri thức. Tuy nhiên, theo Derrida, sự phân biệt này là không mạch lạc vì cái siêu việt/tiên nghiệm được tạo ra bằng một ảo tưởng tách biệt với cái kinh nghiệm chỉ thông qua chuyển động phân biệt của cái dấu vết và thông qua chuyển động của khả tính lặp lại. Cái siêu việt không là gì ngoài sản phẩm sân khấu của nó thông qua cái kinh nghiệm mà nó thể hiện chính nó; do đó, trong khi Husserl đặt định sự phân biệt giữa siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm như là hữu thể luận và mang tính bản chất, thì Derrida đã chỉ ra rằng phép quy giản hiện tượng học sẽ không thể diễn ra nếu điều này là như vậy. Thay vào đó, Derrida chứng minh rằng sự khác biệt giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm là một sự khác biệt được dịch là hư không; đó là một sự khác biệt vốn nghịch lý là tính giống hệt vì nó không phân tách bất cứ điều gì và không phân biệt bất cứ điều gì. Chính sự khác biệt được dịch là hư không đó chia cách giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm, tạo điều kiện cho phép quy giản hiện tượng học, nếu sự khác biệt đó mang tính hữu thể luận hoặc bản chất thì phép quy giản hiện tượng học sẽ không thể diễn ra. Do đó, Derrida xem xét aporia cơ bản của siêu hình học Husserl—sự phân biệt cơ bản và cứng nhắc mà Husserl đặt ra là hữu thể luận và bản chất sẽ không cho phép quy giản hiện tượng học diễn ra nếu nó thực sự chân. Giải thích của Derrida về sự khác biệt được dịch là không có gì và không phân biệt bất cứ điều gì, và nghịch lý thay không phải là sự khác biệt mà là sự giống nhau, giải thích cho chính các điều kiện khả tính của phép quy giản hiện tượng học và sáng thế/tạo sinh siêu việt.

6. Différance and Khả tính lặp lai

Theo truyền thống, cái siêu việt/tiên nghiệm được đặt định là nguồn gốc và xuất xứ duy nhất của cái kinh nghiệm. Tuy nhiên, điều này không nói lên điều gì về cấu thành động giữa cái siêu việt/tiên nghiệm và kinh nghiệm tạo điều kiện cho mối quan hệ của chúng. Nó không giải thích cho sự chuyển động của sự khác biệt tiên nghiệm giữa các phạm trù siêu hình này, hoặc cái dấu vết, cho phép cấu thành siêu việt-kinh nghiệm. Derrida truy dấu điều kiện khả tính cho mối quan hệ siêu việt/tiên nghiệm-kinh nghiệm tới différance, hoặc sự khác biệt tiên nghiệm và hư không, khoảng cách hoặc đứt đoạn vốn chia tách cái siêu việt và kinh nghiệm. Sự khác biệt tiên nghiệm chứa đựng một aporia: nghịch lý thay, đó là sự khác biệt vốn giống nhau vì nó chia tách hư không. Sự khác biệt này được dịch thành hư không cho phép khoảng trung gian của cái siêu việt/tiên nghiệm trong phép quy giản kinh nghiệm và hiện tượng học, nếu sự khác biệt này mang tính bản thể hoặc bản chất thì phép quy giản hiện tượng học sẽ không thể diễn ra và cái siêu việt sẽ không thể tạo điều kiện trở thành trung gian trong cái kinh nghiệm. Do đó, sự phân biệt của Husserl giữa cái siêu việt và kinh nghiệm như một sự phân chia hữu thể luận và bản chất trở thành một sự phân biệt không mạch lạc vì những lý do trên. Như Derrida lập luận, sự khác biệt siêu việt-kinh nghiệm, hay différance, mang tính chức năng hơn là bản chất. Dấu vết của những dấu vết lặp lại này tạo ra cả cái siêu việt và kinh nghiệm trong [tr.146] vận động tái tạo của khả tính lặp lại. Sự khác biệt a priori tiên nghiệm giữa cái siêu việt và kinh nghiệm được dịch là không có gì, hay différance, duy trì siêu hình học thông qua việc duy trì cấu thành động của chúng như là khả tính lặp lại. Différance được dịch là sự tái tạo của hư không này, hay sự khác biệt a priori tiên nghiệm tách biệt cái siêu việt và kinh nghiệm, cho tạo điều kiện cho sản xuất siêu hình và phân đôi a priori tiên nghiệm giữa hiện diện và không-hiện diện. 

Thay vì cái siêu việt là thành phần duy nhất cấu thành nên cái kinh nghiệm, do đó Derrida lập luận rằng sự khác biệt a priori tiên nghiệm, hay différance, duy trì sản xuất siêu hình học. Do đó, tri thức khách quan hay khoa học có thể hình dung ra thế giới-sống thông qua trung gian của cái siêu việt trong cái kinh nghiệm, hay différance và khả tính lặp lại, thay vì thông qua sự duy trì duy nhất của cái siêu việt/tiên nghiệm. Thay vào đó, mối quan hệ lặp lại giữa cái siêu việt và kinh nghiệm, hay khả tính lặp lại, duy trì siêu hình học và cho phép sản xuất siêu hình học diễn ra. Cái siêu việt/tiên nghiệm xuất hiện thành đời sống trong thế giới thuần túy thông qua sự phân biệt ảo tưởng thông qua vận động của cái dấu vết, như một sự khác biệt so với chính nó với tư cách là dấu hiệu ban đầu. Điều này đã được thảo luận trước đó như là sự tái-kích hoạt của noema thông qua sự lặp lại của nó. Derrida mô tả sự khác biệt giữa cái siêu việt và kinh nghiệm như là một sự khác biệt vốn không là gì cả: Vì phạm vi của trải nghiệm tâm lý thuần túy bao gồm toàn bộ phạm vi của cái mà Husserl gọi là trải nghiệm siêu việt. Tuy nhiên, bất chấp sự kết hợp hoàn hảo này, vẫn tồn tại một sự khác biệt cơ bản, sự khác biệt không có điểm chung nào với bất kỳ sự khác biệt nào khác, một sự khác biệt thực tế không phân biệt bất cứ điều gì, một sự khác biệt không tách biệt bất kỳ trạng thái, kinh nghiệm, biểu đạt ý nghĩa xác định nào - nhưng lại là một sự khác biệt không làm thay đổi bất cứ điều gì, lại thay đổi tất cả các dấu hiệu, và trong đó chứa đựng khả tính của một câu hỏi siêu việt. Nghĩa là, bản thân sự tự do. Do đó, một sự khác biệt cơ bản, mà nếu không có nó, thì sẽ không có sự khác biệt nào khác trên thế giới có ý nghĩa hoặc có cơ hội xuất hiện theo đúng nghĩa. 

Nếu không có khả tính và sự công nhận về cái Verdoppelung nhân lên như vậy, mà tính nghiêm ngặt của nó không dung thứ cho tính nhân lên, nếu không có khoảng cách vô hình này được duy trì giữa hai hành động của cái epoché tình trạng treo lại, thì hiện tượng học siêu việt sẽ bị phá hủy từ tận gốc rễ. Ở trên, chúng ta thấy Derrida giải thích về sự khác biệt tiên nghiệm, différance. Derrida đặt định différance như là sự khác biệt nguyên thủy giữa cái siêu việt và cái kinh nghiệm không là gì cả, nó chuyển dịch thành khoảng cách cơ bản, sự chậm trễ hoặc trì hoãn của ý nghĩa vốn trở thành cái dấu vết của những dấu vết có thể lặp lại khởi lên vận động phân biệt của hiện diện và vắng mặt, siêu việt và kinh nghiệm, triết học và phi triết học thông qua vận động của différance và khả tính lặp lại. Sự khác biệt này không phân biệt bất cứ điều gì, không tách biệt bất cứ điều gì, nhưng chuyển dịch thành dấu vết nguyên thủy hoặc sự khác biệt mà từ đó tất cả các dấu vết và sự khác biệt tiếp theo tạo ra sự phát sinh siêu việt và kinh nghiệm. Như Derrida lập luận, sự khác biệt hoặc dấu vết a priori tiên nghiệm này là điều kiện khả tính của cả cái siêu việt và kinh nghiệm khi nó chuyển dịch thành vận động sinh sản hoặc Verdoppelung sự nhân lên của dấu vết này hoặc cái hư không phân biệt cái siêu việt và kinh nghiệm vốn tạo ra sản phẩm siêu hình thông qua vận động của khả tính lặp lại, hoặc sự lặp lại của cái siêu việt trong cái kinh nghiệm với một sự khác biệt.

Do đó, điều kiện khả tính cho hiện tượng học trở thành [tr.147] dấu vết liên tục này hoặc sự khác biệt tiên nghiệm vốn hư không, một sự khác biệt so với dấu hiệu ban đầu như là sự lặp lại của cùng một thứ. Cái hư không này phân biệt cái siêu việt và cái kinh nghiệm trở thành thứ tạo điều kiện cho phép quy giản lược hiện tượng học: Cái hư không này phân biệt những điểm tương đồng, cái hư không này mà không có nó thì không có lời giải thích nào, tức là không có ngôn ngữ nào, có thể được phát triển tự do để phục vụ cho chân lý mà không bị biến dạng bởi một số tiếp xúc thực tế, cái hư không này mà không có nó thì không có câu hỏi siêu việt nào có thể được mở ra, có thể nói cái hư không này nảy sinh, khi toàn bộ thế giới bị trung hòa trong sự tồn tại của nó và bị quy giản thành hiện hữu hiện tượng của nó. Lối vận hành này giống như hoạt động phép quy giản siêu việt; trong mọi trường hợp, nó không thể giống với phép quy giản triết học-hiện tượng học; đúng hơn, nó là một loại quy giản quang ảnh-hiện tượng học; hướng tới việc thiết lập một pheno concept khái niệm hiện tượng thành một photo concept khái niệm quang ảnh; và cuối cùng dẫn tới một khái niệm-từ mới được thiết lập theo một hình thức nghĩa đen mới của một Ý niệm về  cơ chế-quang ảnh. “Photo-mechanism” Cơ chế-quang ảnh là một loại động lực học ‘epoché’ đúng hơn là Photo Dynamics - Quang ảnh-Động học. Cái hư không phân biệt cái siêu việt và cái kinh nghiệm được dịch thành dấu vết, hay différance, trở thành điều kiện tiên nghiệm của triết học phát sinh từ phép quy giản siêu việt. Đó là khả năng cái siêu việt có thể được quy giản thành cái kinh nghiệm hoặc hiện tượng, hoặc cái không phân chia chúng, cho phép vận động tái tạo của cả cái siêu việt và cái kinh nghiệm trong quá trình sản xuất siêu hình thông qua tính lặp lại. Cái siêu việt không tồn tại bên ngoài sự tái tạo ảo tưởng của nó thông qua cái kinh nghiệm. Sự khác biệt tiên nghiệm được dịch thành cái hư không phân chia cái siêu việt và cái kinh nghiệm tạo điều kiện cho phép quy giản hiện tượng học. Tính lặp lại chuyển dịch thành sự lặp lại của cái siêu việt trong cái kinh nghiệm như một sự khác biệt so với dấu hiệu ban đầu, theo lập luận của Derrida, rất nghịch lý, lại là một khác biệt vốn hư không và phân chia hư không.

Différance được chuyển dịch là sự khác biệt a priori tiên nghiệm, hoặc sự khác biệt siêu việt, tuy nhiên sự phân biệt của nó chứa đựng một aporia bí lối vì nó là một sự khác biệt được chuyển dịch là hư không hoặc chia tách hư không; vì cái siêu việt không tồn tại bên ngoài cái kinh nghiệm, cái lý tưởng không tồn tại bên ngoài lịch sử và cái hiện thực, bản ngã siêu việt không tồn tại bên ngoài bản ngã kinh nghiệm, cũng hệt như cái siêu việt là hư không bên ngoài cái lịch sử và các trầm tích mà nó thể hiện chính mình trong đó. Différance, như Derrida phát biểu, là sự giống nhau nhưng không giống hệt nhau. Đây là aporia bí lối của siêu hình học—sự khác biệt giữa cái siêu việt và kinh nghiệm chuyển dịch một cách nghịch lý thành tính giống hệt, bởi vì cái siêu việt là cái kinh nghiệm, và không thể tồn tại bên ngoài nó với tư cách là khả tính lặp lại hoặc sự lặp lại với một khác biệt so với dấu hiệu ban đầu, mà những gì chúng ta đã thảo luận ở chương trước là tái kích hoạt của noema thông qua sự lặp lại.

__________________________________

(Còn nữa…) 

Nguồn: Roy Manas (2010). Transforming of Husserlian Phenomenology, Filosofía UIS, Volumen 9, Número 1, Enero - junio de 2010, pp. 131 – 157.

References

Husserl, E. (1931). Ideas: General Introduction to Pure Phenomenology. Translated by- Gibson, New York: MacMillan Co.

Kolakowski, Leszek (1987). Husserl and the Search for Certitude, University of Chicago Press.

Kolakowski, Leszek (2004). For What Tomorrow. A Dialogue with Elisabeth Roudinesco. Stanford University Press 2004.

Hubert L. Dreyfus & Paul Rabinow (1983). Michel Foucault: Beyond Structuralism and Hermeneutics, The University of Chicago, USA: Press.

Hubert L. Dreyfus & Paul Rabinow (1973) Speech and Phenomena, and Other Essays on Husserl’s Theory of Signs. (1973). Trans. by David B. Allison, Evanston: Northwestern University Press.

Stiegler, Bernard. Derrida and Technology: Fidelity at the Limits of Deconstruction and the Prosthesis of Faith, Nacques Derrida and the Humanities, In: Tom Cohen (ed.), (ISBN 0-521-62565-3).

Ströker, Elisabeth (1993). Husserl’s Transcendental Phenomenology, Stanford: Stanford University Press.

Dreyfus, Hubert (ed.) (1982). Husserl, Intentionality, and Cognitive Science, Cambridge, MA: MIT Press.

Dreyfus, Hubert (1982), Noema and Meaning in Husserl, Phenomenology and Philosophical Research, 50: 263-271.

Dreyfus, Hubert (1982), Husserl’s Theory of the Intentionality of Consciousness, in: Dreyfus (ed.) 1982.

Schütz, Alfred (1966). The Problem of Transcendental Intersubjectivity in Husserl,” In: Collected Papers III, The Hague: Nijhoff.

Norris, Christopher (1982). Deconstruction: Theory and Practice.

Thomas, Michael (2006). The Reception of Derrida: Translation and Transformation.

Eyes of the University: Right to Philosophy 2, trans. Jan Plug (Stanford: Stanford University Press, 2004).

Of Grammatology, trans. Gayatri Chakravorty Spivak: Johns Hopkins University Press (1976)

Lawlor, Leonard (2002). Derrida and Husserl: The Basic Problem of Phenomenology, Indiana: Indiana University Press.

Stephen W. Hawking (1992). A Brief History Of Time. Bantam Press, Transworld Publishers Ltd. Great Britain.

Stephen W. Hawking (1992). The Theory Of Everything. Publisher: Phoenix Books.

Roy, Manas (2008). Derrida’s Philosophical Déconstruction, Transcendent Philosophy Journal, Vol.9, Dec.2008 edition, pp.237-246.

Roy, Manas (2010). Phenomenological Existentialism, Think, Vol.9, Issue 24, pp 51-63, Published by: The Royal Institute of Philosophy; Cambridge University Press, U.K.