Powered By Blogger

Thứ Hai, 30 tháng 6, 2025

Phong cách Chống lại Tri thức Tuyệt đối trong Glas của Derrida (II)

Jessica Marian

Người dịch: Hà Hữu Nga

Một loạt đoạn trích từ những bức thư giữa Hegel và Niethammer, trong đó nêu chi tiết về mong muốn của Hegel là không công bố lễ đính hôn của mình và trì hoãn đám cưới (cả ngăn cản của Niethammer). Sau đó, được tái hiện trong Glas, là hai bức thư do Hegel viết cho Marie vào buổi tối trước lễ cưới của họ, dường như là để trả lời về một số bất đồng hoặc tranh cãi. Hegel nhắc lại rằng tình yêu của họ là sự trở thành một của họ—“phân biệt tình yêu của em dành cho anh và tình yêu của anh dành cho em […] sẽ chia cắt tình yêu của chúng ta: tình yêu này chỉ dành riêng cho chúng ta, chỉ là nhất tính này, mối liên kết này”62—tuy nhiên, bức thư thứ hai kết thúc bằng một ghi chú khá đen tối. Hegel viết, “[E]m biết rằng có những người đàn ông độc ác hành hạ vợ mình chỉ để hành vi của họ, cùng với sự kiên nhẫn và tình yêu của họ, có thể liên tục chịu thử thách. Anh không tin rằng mình độc ác đến vậy. Tuy nhiên, mặc dù không bao giờ phải làm hại một con người đáng yêu như em, anh gần như không hối hận vì đã làm tổn thương em […] hãy yên ủy rằng những gì có thể không mấy tử tế và gay gắt trong lời đáp của anh sẽ biến mất thông qua thực tế là anh cảm thấy và nhận ra sâu sắc hơn bao giờ hết rằng em thật đáng yêu, em đang yêu và tràn đầy tình yêu.”63 Phần trích đoạn dài này từ các bức thư của Hegel thường bị bỏ qua trong các phản hồi đối với Glas. Tuy nhiên, tôi tin rằng những bức thư này thực sự đóng một vai trò quan trọng trong việc phá vỡ và làm xáo trộn diễn ngôn lớn hơn của cột Hegel và trong việc đưa các yếu tố mâu thuẫn vào hệ thống dường như toàn diện của phép biện chứng Hegelian (và rất đáng chú ý vì đây là những bức thư cá nhân của Hegel, nên những yếu tố này được coi là nội tại đối với hệ thống đó). Tập hợp các bức thư này làm sáng tỏ vô số mối quan tâm lãng mạn của Hegel, Marie và Nanette—vì vậy có lẽ Hegel không còn thực hành chế độ một vợ một chồng nữa. Người ta cũng cho rằng Hegel kín tiếng về việc công bố và tiến tới việc đính hôn với Marie—vì vậy có thể Hegel đang sao nhãng nghĩa vụ đạo đức của mình đối với hôn nhân. Hơn nữa, tình yêu của Hegel không chỉ đòi hỏi kết hợp, mà còn tiềm ẩn tính tàn nhẫn và đe dọa bạo lực.

[Tr.227] Phần này cũng bao gồm một nhận xét ngắn thú vị, trong đó Derrida viết: “Marie (một trong ba người).”64 Ai sẽ là người thứ ba trong phương trình này? Câu trả lời được đưa ra ngay ở dòng judas đầu tiên: “người sẽ được xướng tên ở đây là Christiane”, người em gái của Hegel65. Thật bổ ích khi đọc judas này cùng với một judas khác được tìm thấy sau đó một chút trong văn bản tập trung vào bệnh tâm thần của Christiane như được [thêm một lần] giải thích thông qua các bức thư của Hegel, một số được gửi cho Christiane và những bức khác được gửi cho “anh họ Göriz” của họ, người dường như đã hỗ trợ Hegel trông coi điều trị và công việc của em gái mình trong thời gian cô ấy đau ốm. Như một dạng giới thiệu cho những lá thư này, Derrida ghi chú một số chi tiết tiểu sử của Christiane và Hegel theo cách rất chọn lọc và gợi ý—ông viết, “Em gái của Hegel, Christiane, đã tự tử vào năm 1832, ngay sau cái chết của anh trai mình. Vào năm 1820 cô đã bị nhốt tại nhà thương điên Zwiefalten […] ‘Những rắc rối về thần kinh’ của cô bắt đầu vào năm 1814 (sau cái chết của Georg Ludwig [cha của họ], khi Marie Hegel đang mong đợi đứa con trai đầu lòng của mình).”66

Thông qua các judas, Derrida tạo dựng lối ám chỉ hướng đến khả tính khát khao lãng mạn hoặc ham muốn tình dục giữa ả em gái này và gã anh trai nọ. Điều đó đặc biệt đáng chú ý khi xét đến vị trí của nó trong một thảo luận về cách Hegel đọc Antigone, là tích truyện đã xác quyết và ngợi ca mối quan hệ phi tình dục độc đáo giữa người anh trai và cô em gái: “Mối quan hệ anh-trai-và-em-gái, một mối quan hệ phi tình dục”67, “Anh trai và em gái ‘không khao khát nhau’.”68 Thật vậy, như Sina Kramer đã thảo luận, “do đó một luồng đam mê âm ỉ chảy ngầm bên dưới” thì việc thảo luận về Christiane trong Glas, đã ám chỉ “một ham muốn loạn luân đối với em gái, điều này hỗ trợ ngầm tuyên bố của Hegel cho rằng giữa anh trai và em gái chỉ khả thể thừa nhận vì trong mối quan hệ đó không có ham muốn tình dục.”69 Theo góc nhìn này, ham muốn của Hegel mang một màu sắc hoàn toàn khác; đó là đa thê, phi-Cơ đốc giáo, loạn luân, bạo lực, đồi trụy, hoàn toàn có xu hướng vi phạm và phi lý. Trong khi đó, về phía Genet, sự lưu thông và thay thế các đối tượng chỉ tạo ra các mảnh vỡ. Nếu chúng ta hiểu các đoạn trích của Genet là đối lập và có lẽ là giải cấu trúc hệ thống của Hegel thì bản thân điều này lại nảy sinh một vấn đề mới—liệu việc trao đặc ân cho đoạn trích này có đơn thuần là bái vật giáo đoạn trích, biến đoạn trích thành đối tượng thiết yếu không? Vấn đề này được nêu ra trong một đoạn chính mà Derrida trích dẫn từ Journal du voleur - Nhật ký của Tên trộm của Genet; đoạn trích khá dài, nhưng có thể trích dẫn thêm: ‘“Bắt đầu đi!”’ ‘Với cử chỉ của bàn tay linh hoạt, hắn ra hiệu cho tôi là hắn muốn cởi đồ. Như những buổi tối khác, tôi quỳ xuống để tháo chùm nho. [Tr.228] ‘Bên trong quần của anh ta có ghim [epinglé] một chùm nho mỏng bằng sợi xenluloza nhồi bông. (Chúng to như quả mận xanh; những người phụ nữ Tây Ban Nha thanh lịch thời đó treo chúng trên chiếc mũ rộng vành của họ.) Bất cứ khi nào một kẻ đồng tính nào đó ở Criolla bị kích động bởi đã sưng lên, đều đặt tay vào khóa quần, những ngón tay kinh hoàng của anh ta sẽ chạm phải vật này, mà họ sợ rằng đó là một chùm kho báu thực sự của anh ta, chiếc cành cây - thật buồn cười - có quá nhiều trái treo lủng lẳng. ‘Criolla không chỉ là một quán rượu của các nàng tiên. Một số chàng trai mặc váy nhảy ở đó, mà cả phụ nữ cũng vậy. Gái điếm mang theo ma cô [macs] và khách hàng của họ. Stilitano sẽ kiếm được rất nhiều tiền nếu không khạc nhổ vào lũ đồng tính. Anh ta khinh thường họ. Anh ta tự mua vui cho mình bằng sự khó chịu của họ đối với chùm nho. Trò chơi kéo dài một vài ngày. Vậy nên tôi tháo chùm nho được ghim vào chiếc quần xanh của anh ta bằng một chiếc ghim băng [épingle de nourrice], nhưng thay vì đặt nó lên lò sưởi như thường lệ và cười (vì chúng tôi sẽ phá lên cười [éclations] và đùa cợt trong suốt quá trình thao tác), tôi không thể kiềm chế được mà không giữ nó trong hai bàn tay khum lại và áp má vào đó. Ngay trên đầu tôi, khuôn mặt của Stilitano trở nên gớm guốc. “‘Thả nó xuống (ça), đồ khốn!’” ‘Để mở khóa quần, tôi đã ngồi xổm trên hai chân, nhưng cơn thịnh nộ của Stilitano, nếu sự nhiệt tình thường ngày của tôi không đủ, đã khiến tôi quỳ xuống. Đó là tư thế mà khi đối mặt với anh ta, tôi thường lấy tinh thần bất chấp bản thân mình. Tôi không nhúc nhích. Stilitano nện tôi bằng cả hai chân và một nắm đấm. Tôi đã có thể trốn thoát. Nhưng tôi vẫn ở đó. “‘Chìa khóa ở trong cửa”, tôi nghĩ. Qua cú tung chân đá tôi trong cơn thịnh nộ của Stilitano, tôi thấy chìa khóa kẹt trong ổ khóa, và tôi muốn xoay hai vòng để được nhốt riêng với tên đao phủ của mình. Tôi không gắng hiểu nguyên do cơn giận dữ của hắn, cơn giận dữ quá mức vô cớ, vì thần trí [esprit] tôi không quá để ý đến động cơ tâm lý. Còn Stilitano, từ ngày đó trở đi, hắn không còn đeo chùm nho nữa. […] ‘Chùm nho trên bệ lò sưởi làm tôi ghê tởm [m’écoeurait]. Một đêm [tr.229] Stilitano thức dậy để ném nó vào đống rác bẩn thỉu. Trong thời gian hắn đeo nó, nó không làm hỏng vẻ đẹp của hắn. Ngược lại, vào buổi tối, nó hơi vướng víu chân hắn, khiến chúng hơi cong và bước chân của hắn [pas] hơi vòng tròn và nhẹ nhàng, và khi hắn đi [marchait] gần tôi, trước hoặc sau tôi, tôi cảm thấy một sự kích động thích thú vì chính tay tôi đã chuẩn bị nó. Tôi vẫn nghĩ rằng chính nhờ quyền năng quỷ quái của những quả nho này mà tôi đã gắn bó với Stilitano.70

Ở đây, chùm nho ghim trên bộ phận sinh dục của Stilitano rõ ràng thay thế cho dương vật. Giống như dương vật, nó là một vật thể có thể tháo rời và chủ yếu là một vật thể biểu nghĩa. Rõ ràng là chùm nho trở thành một bái vật đối với người kể chuyện, là kẻ cho rằng những quả nho có một “quyền lực ma quái” và thấy mình không thể không cầm nó trong tay, như một vật thể quý giá, và áp má vào nó. Đáp lại, yêu cầu của Stilitano—“Bỏ nó xuống, đồ khốn”—có lẽ là cái còn lại/lời nhắc nhở về khả tính thay thế và lưu thông triệt để của các vật thể gắn chặt với Genet nói chung—đừng chạm vào nó, đừng giữ nó trong tay, đây không phải là vật thể đặc quyền, hãy bỏ nó xuống. Stilitano (và Genet) phủ nhận thứ bái vật đó thông qua lời khẳng định về khả tính thay thế và lưu thông, vốn phủ nhận một vật thể đặc quyền duy nhất. Nhưng đoạn văn cũng mô tả cụ thể phản ứng dữ dội của Stilitano là “quá không cân xứng với nguyên do của nó” - do đó, cũng có ý nghĩa rằng nền kinh tế thay thế có khả năng tự nhấn chìm trong vận động bái vật và ngắm-dương vật của chính nó. Nếu chùm nho bị làm rơi (“Bỏ nó xuống, đồ khốn”), thì khả tính thay thế của nó trở thành một đặc điểm thiết yếu, vốn phải được bảo vệ nghiêm ngặt; do đó, chùm nho trở thành cả hư vô và tất cả, nó trở nên không thể chạm tới, thậm chí là linh thiêng. Nền kinh tế của ham muốn dựa trên sự tương đương chung của các đối tượng và sự thay thế vô tận của chúng được thấy đang vận hành trong cột Genet do đó bị đặt thành vấn đề. Đây là một vấn đề cốt yếu trong Glas vì nó gợi ý rằng tình trạng phân mảnh không còn có thể được ban đặc ân với tư cách là cơ sở để giải cấu trúc hệ thống hoặc tổng thể tính nữa.

Điều tôi muốn rút ra không chỉ đơn giản là các judase dàn dựng một sự đảo ngược các khuôn khổ; không phải là vấn đề Genet trở nên giống Hegel hay Hegel trở nên giống Genet, mà đúng ra là vấn đề liên quan đến tình trạng mất ổn định các công cụ phân loại và phạm trù được sử dụng để xác định lập trường liên quan đến Genet hay Hegel hoặc cách thức mà chúng có thể được tạo ra để liên hệ trong văn bản này. Derrida sử dụng một phong cách lập luận gián tiếp thiên về cách chơi chữ với tên gọi và từ ngữ cũng như ý nghĩa hoặc hàm ý ngầm. Trong Glas, sự vận động làm mất ổn định này không chỉ đơn thuần là mục đích tự thân. Thay vào đó, nó liên quan đến nỗ lực của Derrida nhằm tránh [tr.230] việc nắm giữ một lập trường tuyệt đối. Đây là nỗ lực phủ nhận khả tính có một lập trường tuyệt đối, nhằm moi ruột tước đi lập trường hiểu biết tuyệt đối. Trong chừng mực Derrida định vị Hegel là triết gia của tri ​​thức tuyệt đối (saviour absolu), điều này cũng có nghĩa là nỗ lực tránh lập trường của Hegel. Nhưng lập trường Hegelian không thể tránh được chỉ bằng cách liên kết với Genet, được khái niệm hóa như một nhân vật hoàn toàn đối lập với Hegel—vì điều này cuối cùng cũng sẽ giả định một lập trường tri ​​thức tuyệt đối. Logic của phép biện chứng Hegel đã ngăn chặn trước sự khác biệt tuyệt đối. Bằng cách làm mất ổn định và làm suy yếu lập luận và diễn giải tuyến tính, hai cột bị khóa trong tình huống không thể quyết định trong đó người ta không thể lựa chọn liệu chúng có chống lại (đối lập) nhau hay chống lại (trong tính kề cận) nhau hay không. Do đó, phong cách gián tiếp, gợi cảm và phức tạp của Glas hướng tới sự phá vỡ quá trình tự-thừa nhận một lập trường tri ​​thức tuyệt đối.

Trích dẫn/Loại trừ

Trong Glas, người ta có thể nhận thấy đôi khi thiếu dấu trích dẫn và liên tục loại trừ các tham khảo trang theo các tiêu chuẩn trích dẫn học thuật đã được thiết lập. Derrida trích dẫn hoặc tham khảo Genet, Hegel, và một số người khác bao gồm Kant, Sartre, Kierkegaard, Freud, Saussure, Poe, Bataille và Mallarmé một cách tự do, dài dòng, nguyên văn hoặc không, đôi khi không sử dụng dấu ngoặc kép, và luôn không có chi tiết trích dẫn như số trang hoặc số đoạn. Tôi cho rằng, cách làm này có ba tác động quan trọng: thứ nhất, nó tạo ra một loại nhầm lẫn về giọng nói trong văn bản khiến người ta khó phân biệt được tác phẩm của Derrida với tác phẩm của Genet, Hegel hoặc Kant, v.v.; thứ hai, nó khiến người đọc cực kỳ khó phân biệt được liệu một trích dẫn đã được rút gọn, thay đổi, cắt xén hay chưa; và thứ ba, nó làm suy yếu khả tính có một văn bản khép kín, hoàn chỉnh hoặc độc lập bằng cách làm mờ ranh giới giữa văn bản này và những văn bản mà nó trích dẫn.

Marie Maclean đã cho rằng, “[t]rong suốt Glas, một trò chơi với ngôi thứ nhất không hề thay đổi ở cột bên phải (Genet)”, và “thường cố tình không chắc chắn liệu giọng nói mà chúng ta nghe thấy có phải là Genet đang nói hay không, hay đó là giọng của Jacques Derrida.”71 Trong khi các thảo luận về giọng nói có xu hướng chỉ xuất hiện trong các phân tích chịu ảnh hưởng của Genet về Glas, thì hiệu ứng này cũng không kém phần chính xác đối với cột Hegel. Tình trạng thiếu các tham khảo số trang và việc sử dụng dấu ngoặc kép không nhất quán, cũng như độ dài cực lớn của một số trích dẫn, nhiều trích dẫn trong số đó có xu hướng [tr.231] không được tiếp nối trước hoặc sau nó bằng bất kỳ loại bình luận hoặc phản ánh liên quan nào, khiến cho trải nghiệm đọc trở nên khó khăn vì việc trích dẫn trực tiếp, diễn giải, tóm tắt, bình luận và lập luận có thể xuất hiện nhưng không thể phân biệt được với nhau. Như Magedera viết, việc bỏ đi “dấu ngoặc kép và tham khảo số trang cho phép trích dẫn được định vị chính xác bên ngoài Glas,” khiến cho các trích dẫn “không còn chức năng […] với tư cách bằng chứng có thể xác minh bên ngoài”, do đó làm suy yếu “sự phân chia nghiêm ngặt giữa trích dẫn và bình luận.”72

Liên quan đến tình trạng này, việc thiếu các chi tiết trích dẫn khiến cho người đọc không thể phân biệt được liệu Derrida có cắt, viết tắt hay tách bất kỳ trích dẫn cụ thể nào ra khỏi ngữ cảnh hay không và khi nào. Thật vậy, Derrida viết về các trích dẫn của mình là “cần thiết phải cắt, xén tỉa [coupures], lặp lại, hút, cúp, treo, chọn, vá [coutures], đẽo, ghép, nhại, các cơ quan không có cơ thể riêng của chúng”.73 Hơn nữa, nếu không có thông tin trích dẫn, sẽ rất khó để biết Derrida trích dẫn và không trích dẫn văn bản nào. Tina Chanter đã rất tinh tế chỉ ra cái vắng mặt khá dễ thấy.74 Cô lưu ý đến sự kết hợp của các khoảnh khắc trong cọc Hegel: đầu tiên, cọc Hegel có một thảo luận kỹ càng về khác biệt giới tính và quan hệ vợ chồng; thứ hai, văn bản nhiều lần đề cập và ám chỉ đến phép biện chứng ông chủ/nô lệ của Hegel; và thứ ba, Derrida lồng vào một thảo luận tương đối ngắn gọn nhưng khá chói tai quan điểm khủng khiếp của Hegel về châu Phi và chế độ nô lệ (trích từ Vorlesungen über die Philosophie der Weltgeschichte - Bài giảng về Triết học Lịch sử Thế giới của ông).

Với sự kết hợp các điểm này trong tâm trí, Chanter lập luận rằng “điều đáng chú ý là Derrida không đề cập đến gợi ý của Hegel [trong Ethiksystem - Hệ thống Đạo đức] cho rằng mối quan hệ chủ nô/nô lệ phải được hiểu liên quan đến sự khác biệt giữa các giới tính”75 và lưu ý đến thực tế là Derrida “đặc biệt loại trừ văn bản này khỏi cân nhắc của mình, khi tuyên bố rằng, trong số các văn bản đề cập đến “cuộc tử chiến để được công nhận”, “văn bản duy nhất giải thích cuộc đấu tranh trong các vấn đề gia đình” là Philosophie des Geistes - Triết học Tinh thần.”76 Chanter dựa vào một phân tích của Christopher Arthur giải thích rằng một vài trang đóng của Hệ thống Đạo đức, phát triển lập luận sau: “Mối quan hệ giữa chủ nô và nô lệ bắt nguồn từ các sự kiện tự nhiên (ở tr. 125) nhưng nó có thể đạt tới ổn định của một hình thức xã hội, đó có thể là “đạo đức” (ở tr. 126): điều này thấy rõ trong gia đình (ở tr. 127).”77 Do đó, Arthur cho rằng Hegel rút ra một “gắn kết rõ ràng giữa mối quan hệ chủ nô-nô lệ và hôn nhân”78, và Hegel “tạo ra mối liên hệ giữa quyền lực và hôn nhân”79, “ông khái niệm hóa gia đình trên cơ sở phát triển của quyền lực và  ràng buộc.”80

[Tr.232] Có lẽ là hữu ích khi tái hiện khoảnh khắc trong Glas mà Chanter đã chú ý đến: Ở đây, cuộc đấu tranh đến chết để được công nhận diễn ra. Nó thường được biết đến dưới hình thức mà Phänomenologie des Geistes - Hiện tượng học Tinh thần mang lại. Trước đây, ba văn bản đã đề cập đến nó: System der Sittlichkeit - Hệ thống Đạo đức (sớm hơn một chút so với Jenaer Philosophie des Geistes - Triết học Tinh thần Jena), Jenaer Realphilosophie - Triết học Thực tế Jena (gần như cùng thời với Phänomenologie des Geistes - Hiện tượng học Tinh thần) và Philosophie des Geistes - Triết học Tinh thần. Câu cuối cùng này là câu duy nhất giải thích về cuộc tranh đấu trong một hệ vấn đề gia đình.81 Chanter lập luận rằng việc không đề cập đến mối quan hệ chủ nô/nô lệ-chồng/vợ trong System der Sittlichkeit - Hệ thống Đạo đức “là một trong những điểm mà Derrida có thể chịu ảnh hưởng, một cách có ý thức hoặc vô thức, bởi một điểm mù khi nói đến việc suy nghĩ về mối quan hệ giữa sự khác biệt giới tính và chế độ nô lệ”.82 Sơ xuất của Derrida, như được gợi ra, là một thất bại trong lập luận, một lỗ hổng khiến cho lập luận không toàn diện, quá dễ bị bác bỏ, không đầy đủ, phi tổng thể. Nhưng có lẽ cần phải chỉ ra rằng System der Sittlichkeit - Hệ thống Đạo đức được đề cập cụ thể vào đúng thời điểm mà nó có vẻ phù hợp nhất, và sau đó bị lập tức chủ động bác bỏ. Có lẽ chúng ta có thể hiểu lỗi bỏ sót này, ở một mức độ nào đó, như một loại trừ năng động.83 Khi làm như vậy, chúng ta có thể thấy cử chỉ loại trừ này khiến người đọc có tính phê phán rời xa Glas, hướng đến các văn bản và các liên-văn bản khác.

Theo logic này, tôi muốn đề xuất một văn bản Hegelian khác liên quan đến mối gắn kết phương ngữ chủ nô/nô lệ với mối quan hệ giữa chồng và vợ—một văn bản được Arthur chỉ ra, trong cùng một bình luận mà Chanter sử dụng. Đó là một lá thư khác, do Hegel viết cho người bạn Caroline Paulus vào tháng 7 năm 1811 (vài tháng trước lễ cưới của Hegel và Marie vào tháng 9). Hegel kể về hạnh phúc của mình; Marie xen vào với những bình luận ở lề. Có một lúc, Hegel gọi chồng của Caroline, Giáo sư Paulus, là “lãnh chúa và chủ nô”.84 Ở lề lá thư, Marie nói thêm, “Mặc dù lãnh chúa và chủ nô của tôi viết rất dài dòng trong bức thư của mình, và dù góc nhỏ mà ông ấy giao cho tôi có khiêm tốn đến đâu, thì tôi vẫn biết rằng Caroline Paulus tốt bụng sẽ không quên tôi. Tôi đã thì thầm cất tiếng trong suốt bài diễn thuyết của chủ nhân tôi. Nhưng mỗi lần tôi vẫn đều kính cẩn lắng lại, mặc dù tôi rất muốn hân hạnh củng cố [tr.233] nhiều điều một cách dài dòng hơn.”85 Ở đây mối kết nối được tạo ra giữa vợ và chồng, giữa ông chủ và nô lệ, khó có thể minh bạch hơn. Cũng có một liên quan hiển hiện đến đoạn thảo luận của Glas về họ tộc Hegel/gia đình riêng của Hegel và việc sử dụng một cách cẩn trọng các lá thư riêng tư của Hegel trong văn bản. Lá thư này và các ghi chú bên lề của nó không xuất hiện ở bất kỳ đâu trong các trang của Glas, nhưng lá thư có thể được [đọc lại] dưới góc nhìn của Glas và lá thư có thể [tái] thông tin về cách đọc Glas của chúng ta. Điều tôi muốn gợi ý là hành vi loại trừ trong Glas, được che giấu bởi việc không sử dụng các thông lệ trích dẫn của văn bản, có chức năng lật ngược văn bản.

Lối thực hành phê phán khi đọc Glas, vốn nhất thiết phải tham gia vào các văn bản phụ và liên văn bản của Glas, làm suy yếu khả tính tiếp cận Glas như một văn bản khép kín, hoàn chỉnh hoặc độc lập. Ranh giới giữa văn bản này, những ranh giới mà nó trích dẫn, những rang giới mà nó nêu tên, và thậm chí cả những ranh giới mà nó loại trừ bắt đầu có vẻ kém rõ ràng hơn. Thật vậy, như Marian Hobson đã lập luận, trong Glas, “phần lớn các văn bản xa lạ bị giữ lại trong trạng thái treo”, theo đúng nghĩa “[n]hững gì đang được đọc có thể xuất hiện như một loại sản phẩm ảo hóa từ những gì không có ở đó, hoặc đúng hơn là ở một nơi nào đó khác”.86 Hành vi loại trừ này có vẻ đặc biệt quan trọng xét theo cách mà Glas tham gia vào quá trình khái niệm hóa đại gia đình Hegelian và với cách Hegel đọc Antigone, và đặc biệt chú ý đến việc Hegel loại trừ hình tượng người mẹ và chủ thể tính nữ tương ứng. Như đã đề cập, hệ thống biện chứng của Hegel được phát hiện là dựa trên những loại trừ như vậy. Kramer gọi khía cạnh này của hệ thống Hegelian là “loại trừ cấu thành” của nó; thuật ngữ của cô biểu thị “cái cấu trúc và quá trình mà một cơ thể chính trị được cấu thành thông qua việc loại trừ một khác biệt nào đó mà nó không thể chấp nhận được và chống lại những gì mà nó tự định nghĩa hoặc cấu thành nên”.87 Như Kramer đề cập, câu hỏi về sự loại trừ cấu thành này “vang vọng khắp hệ thống của Hegel vì cách thức mà hệ thống được tổ chức: mỗi bộ phận đều phản ánh cái tổng thể, một chiến lược triết học về quyền làm chủ”.88 Nếu, trong phép biện chứng của Hegel, việc cấu thành hệ thống phụ thuộc vào loại trừ, thì thật đáng ngạc nhiên khi nhận thấy rằng trong Glas, hành vi loại trừ thay vào đó dường như lại vận hành giải cấu trúc của hệ thống.   

Thất bại, Cái còn lại và Bổ nhào Siêu việt

Glas thấm đẫm một số bình luận tự phản ánh, lo lắng [tr.234] đặt câu hỏi về toàn bộ dự án của văn bản và than thở về một thất bại sắp xảy ra dường như không thể tránh khỏi. Ở cột bên phải: “Có phải bạn sắp rơi tuột vào bẫy không?”89; “Tôi không biết liệu mình có cố hiểu hắn không. Nhưng nếu hắn nghĩ rằng tôi hiểu hắn, thì hắn sẽ không ủng hộ điều đó […] Thật là cám cảnh […] Hắn sẽ cảm thấy mình đã bị cuốn vào […] Tôi lẻn vào như một kẻ thứ ba”90; “Dù sao đi nữa, cảnh tượng ấy sẽ kết thúc tồi tệ”91; “Thế nào ta chẳng mất, chẳng được”.92 Ở cột bên trái: “điều gì xảy ra khi văn bản của Hegel không được đọc hoặc khi nó được đọc hời hợt?”93; “không đọc Hegel hoặc đọc hời hợt nghĩa là gì”94; “Không hiểu văn bản [Hegel] thì có nghĩa là gì”95. Xuyên suốt Glas người ta có cảm nhận rõ ràng rằng để đối đầu với Hegel-triết gia tri thức tuyệt đối, thì cần phải thủ tiêu tâm trạng bại trận trong việc thoát khỏi Hegel và vòng tròn tri thức tuyệt đối— Derrida viết, “[m]ọi thứ […] tự hiểu trước, một cách nghiêm ngặt, trong vòng tròn [tri thức tuyệt đối], vốn luôn quay trở lại vòng tròn, giả định sự khởi đầu của nó, và chỉ đạt đến sự khởi đầu đó ở chung cuộc.”96 Nói cách khác, xuất hiện một cảm nhận trong đó Glas phải thất bại. Khái niệm thất bại này liên quan đến tình tiết “cái còn lại”. Dòng đầu tiên cột Hegel viết: “Rốt cuộc, cái còn lại, ngày hôm nay, đối với chúng ta, ở đây, bây giờ, của một Hegel là gì?”97 Dòng đầu tiên cột Genet ám chỉ đến Ce qui est resté d’un Rembrandt déchiré en petits carrés bien réguliers, et foutu aux chiottes “Cái còn lại của một bức tranh Rembrandt bị xé thành những ô vuông nhỏ, rất đều đặn và nhét vào hố xí” của Genet, và sau đó viết: “Với tư cách là [những] cái còn lại.”98 Mặc dù khá khó hiểu, nhưng “cái còn lại” có lẽ là tình tiết quan trọng nhất và duy nhất nhất quán xuất hiện trong Glas. Trong Glas, Derrida tìm kiếm cái còn lại, đặt ra câu hỏi: “Chẳng phải luôn có một yếu tố bị loại trừ khỏi hệ thống đảm bảo cho không gian khả tính của hệ thống sao? […] Bãi nôn ấy của hệ thống.”99 Như bài viết này đã tìm cách khám phá, trong Glas, phụ nữ, người mẹ, ham muốn tình dục, tình trạng phân mảnh và người vợ-nô lệ đều được thấy là “cái còn lại”. Khó khăn đối với Glas là giải quyết vấn đề bái vật hoặc siêu việt hóa những cái còn lại, điều này có thể khiến chúng được phục hồi theo logic của tri ​​thức tuyệt đối. Với suy nghĩ này, tôi muốn tập trung vào một hình ảnh kết thúc trong Glas. Ở cột Genet, trong một judas, có bình luận sau: “Tôi không ngừng chặt đầu siêu ngôn ngữ, hay đúng hơn là luôn quăng đầu nó vào văn bản để trích xuất nó ra khỏi văn bản, thường xuyên, quảng từng nhịp thở một.”100

Tôi đã cho rằng trong suốt Glas, Derrida cố làm suy yếu khả tính về một lập trường tri ​​thức tuyệt đối và nỗ lực này luôn có nguy cơ bị hấp thụ vào hệ thống tri ​​thức tuyệt đối. Mối bận tâm này [tr. 235] đối với đoạn văn trên có liên quan đến phong cách của Derrida trong Glas. Trong đó, Derrida đã tìm kiếm một cách viết khác. Đây là một phong cách viết không quan tâm đến lập luận tuyến tính, thay vào đó sử dụng các kỹ thuật như chơi chữ/tên gọi, hàm ý, ẩn ý, và tái sử dụng các tiêu chuẩn của lối văn tự học thuật và triết học truyền thống liên quan đến trích dẫn và tham chiếu nguồn tư liệu của ai đó. Một trong những câu hỏi phổ biến nhất được nêu ra để trả lời Glas liên quan đến vị thế của nó với tư cách là một tác phẩm triết học hoặc văn chương, nhưng điều mà câu hỏi này bỏ lỡ là Derrida đang tìm kiếm thứ gì đó vẫn còn lại giữa hai phạm trù này. Phong cách của Glas là một phong cách vận động bổ nhào siêu việt, qua đó cái còn lại bị loại trừ [“bãi nôn ấy của hệ thống”] được tiếp nhận và sau đó lại bổ nhào vào lĩnh vực loại trừ trước đó của chúng. Đây là một hình thức kháng cự và phê bình cơ bản mang tính nội tại. Phong cách của Glas gắn chặt với nỗ lực nhằm phá bỏ lập trường triết học của tri​​thức tuyệt đối—người ta thấy các lập luận mâu thuẫn nhau, các từ có vô số nghĩa, tên gọi và chữ ký ở những nơi không phù hợp, văn bản và bối cảnh nằm ngoài bản thân văn bản, và người ta chạm trán cả với khả tính thất bại ở mọi bước ngoặt.

___________________________________________

Nguồn: Jessica Marian (2015). Styling against Absolute Knowledge in Derrida's Glas, In Parrhesia 24 · 2015 · 217-238

Note

61. Derrida, Glas, 297.

62. Derrida, Glas, 159ai.

63. Derrida, Glas, 160ai.

64. Derrida, Glas, 155ai.

238 · jessica marian

65. Derrida, Glas, 151ai.

66. Derrida, Glas, 177ai.

67. Derrida, Glas, 149a.

68. Derrida, Glas, 149a.

69. Sina Kramer, “Derrida’s ‘Antigonanette’: On the Quasi-Transcendental” Southern Journal of Philosophy 52:4 (2014, 536).

70. Derrida, Glas, 210b-212b.

71. Maclean, Writing Illegitimacy, 207.

72. Magedera, “Seing Genet, Citation and Mourning; a propos Glas by Jacques Derrida”, 36.

73. Derrida, Glas, 168b.

74. Tina Chanter, “‘What color is mythology?’ Antigone’s Achievement of Self-Consciousness Through a Failure to Recognize the Humanity of Slaves” Labrys, études féministes/ estudos feministas 23 (2013).

75. Chanter, “What color is mythology?”; and see Derrida, Glas, 135a.

76. Chanter, “What color is mythology”; quoting Derrida, Glas, 135a.

77. Christopher Arthur, “Hegel as Lord and Master” Socialism, Feminism and Philosophy: A Radical Philosophy Reader. Eds S. Sayers and P. Osborne. New York: Routledge, 1990, 38.

78. Arthur, “Hegel as Lord and Master”, 40.

79. Arthur, “Hegel as Lord and Master”, 39.

80. Arthur, “Hegel as Lord and Master”, 39.

81. Derrida, Glas, 135a.

82. Chanter, “What color is mythology?”.

83. Chanter herself made this suggestion at the London Graduate School’s 2014 Summer Academy.

84. G. W. F. Hegel, Hegel, the Letters. Trans. Clark Butler and Christine Seiler. Indiana University Press, Bloomington, 1984, 247.

85. Hegel, Hegel, the Letters, 248.

86. Marian Hobson, “Derrida’s Irony” Derrida’s Legacy: Literature and Philosophy. Eds Simon Glendinning and Robert Eaglestone. Oxon: Routledge, 2008, 111.

87. Kramer, “Derrida’s ‘Antigonanette’”, 522.

88. Kramer, “Derrida’s ‘Antigonanette’”, 532.

89. Derrida, Glas, 27b.

90. Derrida, Glas, 203b

91. Derrida, Glas, 199b.

92. Derrida, Glas, 66b.

93. Derrida, Glas, 227a.

94. Derrida, Glas, 231a.

95. Derrida, Glas, 231a.

96. Derrida, Glas, 226a.

97. Derrida, Glas, 1a.

98. Derrida, Glas, 1b.

99. Derrida, Glas, 162a.

100. Derrida, Glas, 115b.

 

 

 

 

 

 

Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2025

Phong cách Chống lại Tri thức Tuyệt đối trong Glas của Derrida (I)

Jessica Marian

Người dịch: Hà Hữu Nga

[Tr.217] Cuốn sách Glas (1974) của Jacques Derrida được viết hoàn toàn trên hai cột song song, cột bên trái tập trung vào việc đọc các tác phẩm tuyển chọn của G. W. F. Hegel, triết gia thế kỷ XIX về cái mà Derrida gọi là “savoir absolu” (tri thức tuyệt đối), và cột còn lại, bên phải, tập trung vào một tuyển chọn tiểu thuyết và các vở kịch của Jean Genet, một trong những tác giả được cho là ngoài lề nhất của Pháp, một “kẻ phản bội, kẻ trộm, kẻ chỉ điểm, kẻ hèn nhát và kẻ kỳ quặc” tự nhận.1 Glas [Trong tác phẩm của Jacques Derrida, từ “Glas” có nghĩa kép; đó là từ tiếng Pháp có nghĩa là “hồi chuông”, cụ thể là tiếng chuông báo hiệu cái chết hoặc đám tang; tuy nhiên, Derrida sử dụng “Glas” theo cách chơi chữ với từ tiếng Đức “Glas”, có nghĩa là “thủy tinh”; nghĩa kép này là một phần không thể thiếu trong cấu trúc và lập luận của cuốn sách “Glas” của ông, trong đó ông đặt các bài đọc về Hegel và Jean Genet bên cạnh nhau, tạo ra một văn bản vừa là bình luận triết học vừa là một thí nghiệm giải cấu trúc.HHNG] là một trong những văn bản mang tính thử nghiệm nhất về phong cách của Derrida, bằng cách bỏ qua các tiêu chuẩn lập luận tuyến tính và trích dẫn để thiên về một cách tiếp cận dựa trên các yếu tố như chơi chữ, cộng hưởng thính giác và ngắt quãng hoặc bổ sung văn bản được gọi là “judase”. Glas thường được nhóm với Éperons: les styles de NietzscheMấy chóp Phong cách Nietzsche (1978) và La Carte postale: de Socrate à Freud et au-delà – Tấm thiệp từ Socrates đến Freud và Bọn khác (1980) là những văn bản gần như đương thời được viết theo phong cách phi truyền thống, có hơi hướng văn chương. Trong bài bảo vệ luận án năm 1980, Derrida đã định vị nhóm ba tác phẩm này bằng một “cuộc theo đuổi liên tục […] cái dự án văn tự học”, “tiếp tục khuyếch trương những nỗ lực trước đó”, đồng thời ám chỉ đến nhu cầu thực sự phải cố gắng phát triển một phong cách và hiệu suất viết khác, hướng đến các “cấu hình văn bản ngày càng ít tuyến tính, hợp lý và theo chủ đề, thậm chí là các hình thức đánh máy táo bạo hơn, sự giao thoa của các tập hợp, sự pha trộn của các thể loại hoặc các phương thức, những thay đổi giọng điệu […], châm biếm, tái định tuyến, ghép nối, v.v.”2

[Tr.218] Trong bài viết này, tôi đọc Glas với mục đích khám phá chính xác mối liên hệ giữa dự án triết học của Derrida và phong cách thử nghiệm cao độ của Glas—tôi cho rằng phong cách của Glas gắn bó mật thiết với dự án triết học của ông. Thông qua việc khám phá trò chơi khoáng trương về chữ và tên gọi của Derrida, động thái của ông hướng tới ý nghĩa hàm ngụ, lập luận hàm ý, phi tuyến tính và việc không/sử dụng sai các thông lệ chuẩn mực về trích dẫn và tham chiếu học thuật, tôi cho rằng Glas dàn dựng một nỗ lực để tránh khả tính của một văn bản hoàn chỉnh, khép kín và một lập trường triết học tuyệt đối, hơn nữa nỗ lực tránh cái tuyệt đối này đòi hỏi phải có cách viết khác biệt ấy. Tôi cho rằng Glas được tạo dựng phong cách xung quanh việc “trảm thủ” siêu ngôn ngữ thông qua việc “nhúng chìm” và “trích xuất” nhịp nhàng các yếu tố còn lại hoặc bị loại trừ vào và ra khỏi văn bản.3 Glas thường không được coi là một tác phẩm cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp của Derrida, nhưng nó đã là chủ đề của một số công trình học thuật xuất sắc. Nhiều cách đọc Glas có xu hướng chỉ tập trung vào cột Hegel hoặc chỉ chuyên cột Genet. Đáng chú ý, những tác phẩm này thường được các học giả về Hegel hoặc Genet biên soạn, thay vì các học giả về Derrida. Peter Krapp đã tóm tắt ngắn gọn hiện tượng này, lưu ý các bộ sưu tập tác phẩm chính về phía Hegel và Genet: ông viết, “[c]ác đóng góp cho Hegel sau Derrida […] hầu như bỏ qua Glas viết về Genet, trong khi các văn bản được tập hợp trong một ấn bản đặc biệt về Genet cho môn Pháp học của Đại học Yale […] cố xoay xở để gạt Hegel ra.”4 Về cơ bản, không có gì sai với những cách tiếp cận này; chắc chắn Glas là một tác phẩm phê bình về cả Hegel và Genet, ngay cả khi là một tác phẩm có phong cách đặc biệt, vốn phải có một vị trí trong các loại hình học thuật về những nhân vật này và mời gọi những phản hồi về cách đọc mà nó đưa ra về những nhân vật đó.

Với phạm vi tương đối rộng của Glas, chắc chắn cũng cần phải cục bộ hóa và tập trung vào một số khía cạnh nhất định của tác phẩm. Nhiều nhà bình luận trong số này đã trình bày những cách đọc cực kỳ sâu sắc về (một phần) Glas và đáng khen là đã tham gia vào Glas theo cách cân nhắc, mà không, như Geoffrey Bennington đã nói, “hoảng loạn về ‘trò chơi chữ hỗn cuồng ấy’.”5 Tuy nhiên, một số bài viết tập trung vào cột Hegel dường như đã làm như vậy trên cơ sở khẳng định ngầm rằng cột Hegel là duy nhất đáng đọc; người ta bị ấn tượng bởi sức mạnh mà Stuart Barnett và Simon Critchley liên tục tìm cách khẳng định rằng Glas “không phải là một bài tập tự thỏa mãn trong trò chơi- tự-do về văn bản” mà đúng hơn—và lưu ý về ngôn ngữ đạo đức—“một cuộc kiểm tra nghiêm ngặt và chi tiết về Hegel”,6 một “lối lao động đọc sách sùng mộ”, và một “văn bản khổ hạnh sâu xa”.7 Trong khi đó, một số phân tích tập trung vào cột Genet của Glas có xu hướng, ít nhiều có ý thức, rút ​​ra sự tương đương trực tiếp giữa “chiến lược văn bản” của Genet và Derrida,8 với kết quả ít nhiều ngầm định [tr.219] là họ chắc chắn đặt Derrida về phía Genet. James Creech đặt vấn đề nghi ngờ “Glas là một thành tựu trí tuệ tuyệt vời […] bởi vì nó rất phù hợp với chính [cái] dự án của Genet”.9 Vấn đề với việc tuyển chọn chỉ tập trung vào một trong hai cột của Glas không chỉ là một nửa văn bản bị che khuất, mà còn cản trở việc xem xét đầy đủ hơn về cách các cột liên quan đến nhau. Tôi quan tâm theo đuổi việc xem xét như vậy về mối quan hệ giữa các cột với nhau và đặc biệt quan tâm đến các judase của văn bản, thường bị bỏ qua trong các thảo luận về Glas, và tôi tin đó là một địa chỉ quan trọng để trình bày mối quan hệ này.

Trong bài luận Countersignature – Tín hiệu phản hồi (2004), Derrida sử dụng nghĩa kép của từ tiếng Pháp ‘contre’ (gần giống với ‘against’ phản lại/chống lại trong tiếng Anh) “có thể đánh dấu cả sự đối lập, trái ngược, mâu thuẫn, tính gần gũi, tiếp xúc-gần”.10 Derrida giải thích, “[o]ne có thể là ‘against’ [‘contre’] kẻ mà ta phản đối (ví dụ như ‘kẻ thù công khái’ của ai đó)”, và cũng có thể là ‘against’ [‘contre’] kẻ ngay bên cạnh ta, kẻ ‘chống lại’ ta, kẻ mà ta động chạm hoặc tiếp xúc”.11 Mối quan hệ đồng thời này giữa sự đối lập và chạm vào hoặc dựa vào có thể được mở rộng để xem xét mối quan hệ giữa hai cột của Glas. Thật vậy, Derrida gợi ý đến thế, khi viết rằng “nghĩa kép sâu thẳm sâu [n]ày của ‘counter’ [‘contre’] […] tất nhiên đang vận hành trong Glas, […] giữa hai cột, cột Genet và cột Hegel—và những ống xi-phôn [judas] của chúng”, “vì đôi khi hai cột mâu thuẫn với nhau […] nhưng đôi khi chúng lại không mâu thuẫn mà nhắm mắt làm ngơ nhau.”12 Điều đáng nói trong bài viết này không phải là xem xét mối quan hệ của Derrida với Hegel hay cuộc gặp gỡ của Derrida với Genet. Thay vào đó, tôi quan tâm đến việc xem xét cách thức mà các cột của Glas liên quan đến nhau như thế nào và tôi theo đuổi việc phân tích cách thức mà công trình triết học Glas gắn liền mật thiết với phong cách sáng tác và viết của nó.

Chơi chữ và Tên gọi

Việc Genet lấy họ của mẹ mình là một điểm được nhắc lại nhiều lần trong suốt cột bên phải của Glas. Genet được sinh ra năm 1910 bởi Camille Gabrielle Genet, hai mươi hai tuổi, một phụ nữ độc thân thường được mô tả là một nữ gia sư hoặc một gái mại dâm, và một người cha không rõ danh tính; Genet bị bỏ rơi khi mới ba mươi tuần tuổi chứ không phải chỉ vài ngày sau khi sinh và do đó lấy họ của mẹ mình. Vì lý do này, Derrida mô tả câu chuyện về ngày sinh của Genet như một “cuộc thụ thai vô nhiễm [tr.220].”13 Derrida liên tục sử dụng sự giống nhau của tên ‘Genet’ và loài cây có tên là ‘genêt’, “một loài cây có hoa màu vàng (sarothamnus scoparius, genista; cây chổi sể tây, genette, genêt-à-balais, có độc tính và là cây thuốc […]).”14 Derrida viết rằng “tên của người mẹ sẽ là […] tên của một loài cây hoặc một loài hoa, ngoại trừ một chữ cái […] cho hình dấu mũ.”15 Trong tiếng Anh, cây bụi thường xanh này được gọi là ‘Scotch broom’ hoặc ‘common broom’ (vì hình dáng giống chổi của nó).  Do đó, ‘genêt’ được coi là mật danh phổ biến hoặc không thích hợp của ‘Genet’—“nó không thích hợp vì nó phổ biến”16—tất nhiên, theo một nghĩa khác, bản thân nó đã là một cái tên không thích hợp, vì nó không phải là tên của người cha. Derrida lưu ý đến việc Genet thường xuyên đặt tên cho các nhân vật của mình theo tên các loài hoa và viết rằng ở nơi mà “cái tên họ thích hợp trở lại […] những bông hoa, thì những bông hoa này bị cắt ra khỏi người mẹ.”17

Tương tự, Hélène Cixous và Catherine Clément cũng nhấn vào sức mạnh của người mẹ-nữ quyền trong các văn bản của Genet: “Những gì được khắc ghi dưới tên của Jean Genet, trong vận động của một văn bản tự chia tách, tự xé thành từng mảnh, tự chặt lìa, tự tập hợp, tự nhớ lại, là một nữ quyền sinh sôi nảy nở, mang tính mẹ.”18 Drucilla Cornell viết rằng “[tr]ong Glas, bà [người mẹ] được khắc ghi trong cái tên của Jean Genet, bông hoa đang nở”19 và đối chiếu điều này với “những tuyên bố cao đạo của Hegel về vị trí của Phụ nữ trong hệ thống của ông”, do đó Glas được hiểu là trình bày “trong cột thứ hai các mẩu văn bản của Genet tách rời chính phép dựng đứng đồng nhất tính nữ mà Hegel cố gắng kiên nhẫn đảm bảo.”20 Thật vậy, Cornell đã chỉ rõ “[c]ó lẽ chưa bao giờ thấy một cuộc giải cấu trúc nào cẩn thận hơn về chủ thuyết dương vật-trung tâm của Hegel hơn là cuộc giải cấu trúc được đưa ra cho chúng ta trong Glas của Derrida.”21

Đánh giá như vậy về cọc Hegel không phải là không có cơ sở. Thông qua cam kết kéo dài với trường hợp đầu tiên, khái niệm về gia đình, đặc biệt là gia đình Cơ đốc giáo được tập trung ở Chúa Ba Ngôi của Cha-Con-Thánh thần, và trường hợp thứ hai, với việc Hegel [hiểu sai] huyền thoại Antigone, Derrida nhấn mạnh một khuynh hướng trong văn bản của Hegel mà trong trường hợp đầu, hoàn toàn loại trừ phụ nữ và họ mẹ, còn trong trường hợp thứ hai, tạo dựng một đồng nhất tính nữ lý tưởng phụ thuộc và củng cố việc loại trừ phụ nữ khỏi vị thế-chủ thể. Derrida gợi ý rằng mô hình gia đình Cơ đốc giáo có thể là “mẫu mực cho thần học bản thể tư biện”.22 Mối quan hệ thân thuộc chính yếu của gia đình Cơ đốc giáo là giữa cha và con trai, với yếu tố thứ ba cần thiết của nó, cái tinh thần. Tinh thần của Kitô giáo là quan hệ cha/con, “mối quan hệ cha con, con trai với cha”, do đó, cái “Tinh thần là cái toàn thể”, nó hình thành nên mối quan hệ mà trong đó gói ghém mọi điều khoản tham chiếu [tr.221].23 Glas suy ngẫm về việc lý thuyết hóa gia đình Kitô giáo mang tính tư biện này trong phần lớn một trăm trang sách—vẫn cố định tập trung vào mối quan hệ cha-con trai. Trái ngược hoàn toàn với việc tập trung mở rộng vào người mẹ ở phía bên kia của trang sách, vị trí của người mẹ đối với tam vị gia đình thánh thiện này trở nên nổi bật vì sự vắng mặt của bà, cũng là việc loại trừ của bà. Sau đó ở cột bên trái, chuyển hướng phân tích sang xem xét cách đọc Antigone của Hegel. Như Patricia Jagentowicz Mills đã viết, “Diễn giải của Hegel về vở kịch Antigone của Sophocles là trung tâm để hiểu vai trò của phụ nữ trong hệ thống Hegel.”24 Thật vậy, đối với Hegel, Antigone trở thành hình tượng mang tính hệ mẫu của vị thế phụ nữ và trách nhiệm độc nhất của phụ nữ đối với cuộc sống gia đình đạo hạnh.25 Cách diễn giải Antigone của Hegel nhấn mạnh một loạt đối lập kết cặp, “luật thánh/luật đời, gia đình/thành phố, phụ nữ/nam giới”26 và đặc biệt nhấn mạnh vào mối quan hệ thuần khiết, vô tính giữa chị em gái và anh em trai, một điểm mà Derrida rất quan tâm (vì những lý do sẽ ngày càng rõ ràng hơn trong bài viết này).

Một trong những tuyên bố chính của Hegel về Antigone (và một tuyên bố đáng chú ý mâu thuẫn với hầu hết các nghiên cứu về Antigone) là nàng không bao giờ rời khỏi phạm vi gia đình vì “[t]hực trạng phát triển ý thức của con người bên ngoài gia đình là cụ thể, giới hạn ở đàn ông. Phụ nữ không bao giờ có thể khao khát [...] cá nhân tính; nàng không thể đạt tới tính đặc thù”.27 Antigone, mô hình của vị thế nữ nói chung, được định vị là không có khả năng là chủ thể tính cá nhân; vậy là, nói chung phụ nữ bị loại khỏi tư cách chủ thể trong hệ thống Hegel. Do đó, hệ thống Hegel, như được trình bày trong Glas, là một hệ thống được định hình theo quan điểm nam quyền, hoàn toàn phù hợp với quan điểm của người cha (và người con trai) — phụ nữ và người mẹ hoặc bị loại trừ hoàn toàn, hoặc được kiến tạo như một đối tượng lý tưởng chung theo cách chỉ tái lập và nhắc lại thân phận bị loại trừ của họ. Trên cơ sở đó, Cornell đã diễn giải hai cột Glas là cuộc dàn dựng một loại giải cấu trúc phép biện chứng Hegelian và tái khắc ghi về người mẹ thông qua những bông hoa của Genet, việc thực hành vở diễn “[c]ú đổ nhào của Hegel”, theo đó “[t]hần dương vật sụp đổ và kéo theo đó, vang lên lời khẳng định rằng tính cương cứng của nó đã bầu chọn nó làm cái biểu đạt siêu việt.”28

Người ta nhận ra rằng chữ ký của Derrida đã xuất hiện nhiều lần trong Glas. Gayatri Chakravorty Spivak nhắc đến “[m]ảnh vụn của các từ d […] nằm rải rác khắp các trang”29 và thực sự nhiều nhà bình luận đã nhận ra sự cộng hưởng về mặt thính giác giữa ‘Derrida’ và các từ và cụm từ như ‘déjà’/đã,rồi, ‘derriere’/sau, phía sau, ‘debris da’/mảnh vụ ‘da’/tất nhiên, đã đành, ‘de dos’, ‘da’, ‘Dionysos Erigone Eriopétale Réséda’, cũng như cách chơi chữ viết tắt tên người tình của Genet, Jean Decarnin, J.D., và ký hiệu của déjà, D.J.30 Tuy nhiên, có vẻ như ít nhà bình luận Glas nhận thấy rằng những ẩn danh này của cái tên Derrida xuất hiện hầu như chỉ ở cột bên phải của văn bản [tr.222]—cột Genet.31 Tuy nhiên, vì cột Genet có liên hệ chặt chẽ với giới tính nữ và tên của người mẹ, nên có vẻ như điều quan trọng cần nhớ là ‘Derrida’ không chỉ là Jacques Derrida mà còn là tên của một người cha, Haïm Aaron Prosper Charles (Aimé) Derrida. Như chúng ta đọc thấy ở một judase trong cột Hegel, “Tôi là cha tôi, con trai tôi và chính tôi. Tên tôi là cha tôi”.32 Thật vậy, cột Genet kết thúc (trong chừng mực chúng ta có thể nói rằng nó “kết thúc” khi không có dấu chấm hết) bằng một chữ ký như vậy của tên người cha—“Hôm nay, ở đây, bây giờ, những mảnh vỡ của [débris de]”.33 Do đó, những từ cuối cùng của cột Genet thực sự được tạo ra theo tên của người cha.

Hơn nữa, ngay cả khi diễn ngôn chung của cột Hegel lúc đầu có vẻ loại trừ triệt để yếu tố nữ tính, và đặc biệt là yếu tố bên mẹ, tôi cho rằng thực tế có tên của các bà mẹ rải rác khắp nơi. Derrida khẳng định ở phần đầu của cột bên trái rằng “Để làm việc trên/trong danh nghĩa của Hegel, để xây dựng nó […] Tôi đã chọn dựa vào một chủ đề […] Đó là luật của gia đình: của gia đình Hegel, của gia đình trong Hegel, của khái niệm gia đình theo Hegel.”34 Những gì tiếp theo trong phân tích của Derrida dường như đều tập trung nhiều vào hai mục sau trong danh sách đó, “gia đình trong Hegel” và “khái niệm gia đình theo Hegel”. Như đã đề cập, có việc tập trung vào tư tưởng gia đình Cơ đốc giáo cụ thể thông qua mối quan hệ cha-con với việc loại trừ người mẹ và một thảo luận thêm về hình tượng-phụ nữ lý tưởng của Hegel, Antigone, được xây dựng cụ thể theo vai trò và bổn phận gia đình của nàng. Nhưng câu hỏi đầu tiên và thường xuyên được nêu ra trong toàn bộ cột bên trái của Glas là “rốt cuộc, những gì còn lại, ngày nay, đối với chúng ta, ở đây, bây giờ, của một Hegel?”35; đây vừa là câu hỏi về di sản của Hegel, vừa là câu hỏi về những gì còn sót lại bên ngoài hệ thống Hegel.

Trong khuôn khổ này, Derrida đã tái giới thiệu các khía cạnh về tiểu sử và cái riêng tư vào quá trình xem xét hệ thống của Hegel, ông thực sự [tái] giới thiệu “gia đình của Hegel”. Trong khi việc xem xét mối liên hệ giữa thần học bản thể tư biện và mô hình gia đình Kitô giáo đã hoàn toàn loại trừ Người Mẹ, tức là Đức Mẹ Đồng Trinh Maria, thì Derrida lại chèn một judas [HHN chú: Trong Glas của Derrida, nhân vật “judas” không chỉ đơn thuần là kẻ phản bội trong Kinh thánh mà còn là một khái niệm phức tạp, nhiều lớp; đó là cái tên mà Derrida sử dụng để khám phá các chủ đề về sự phản bội, ham muốn và sự bất ổn của ý nghĩa, đặc biệt là trong bối cảnh cấu trúc của văn bản và mối quan hệ của nó với các nhân vật như Hegel và Genet.] ghi chú về nhiều Maries hoặc Marias [hoặc Marys] trong cuộc đời của Hegel: “Marie Magdelan là tên đầu tiên của mẹ ông [Maria Magdalena Louisa, tên khai sinh là Fromm], Marie là tên của con gái ông [Susanna Maria] và vợ ông [Maria Helena Susanna].”36 Judas này tiếp tục mô tả cách thức mà Hegel, trong một chuyến đi Dresden năm 1821, đã xem một bức tranh có tựa đề Madonna of Burgomaster Meyer, trong đó “[ô]ng luôn coi bản gốc—mà ông thường xem ở Berlin—là bản sao còn bản sao mà ông vừa thấy ở Dresden lại là bản gốc.”37 Judas ấy cũng trích dẫn ngắn gọn từ một lá thư do Hegel viết [tr.223] năm 1822: “Chào buổi sáng, Maria thân mến, từ ánh nắng của Marianburg, tức là Magdeburg, người hầu gái [Magd] của bà là Đức Mẹ Maria, là người đã được Giáo hội dâng hiến cho cả ngôi Thánh đường. ‘[…] Ra khỏi Magdeburg còn khó hơn là vào đó […]’.”38 Khi hướng sự chú ý đến một loạt các Marie, Maria và Mary trong cuộc đời của Hegel, theo một nghĩa nào đó, judas này đã “phản bội” ​​lời bàn thảo xung quanh mối quan hệ thân thuộc giữa cha và con trai bằng cách buộc phải đưa trở lại mối quan hệ bên họ mẹ. Hơn nữa, Derrida chơi chữ về mối quan hệ đồng âm của “Mehr” [tiếng Đức: “nhiều hơn”] và “mère” [tiếng Pháp: mẹ]. Việc đưa ra khái niệm “more này [deises Mehr – this More]”, Derrida viết “Mehr này không tự tính đến, không thể đưa ra phép tính khách quan, cho một giải thích lam man […] Mối quan hệ mà nó gia nhập mà không bao giờ thuộc về nơi đó, không phân tích nào có thể giải thích theo cách so sánh với phép loại suy. Không có tuyên bố giải thích (Erklärung) nào có thể nói ở đây, ‘cái này bằng cái kia’.”39

Có vẻ như những bình luận này về cái Mehr kia cũng có thể làm cho la mère liên quan đến hệ thống Hegel: bà ấy gia nhập một mối quan hệ mà không bao giờ thuộc về nó (bà ấy không thuộc về nó vì bà ấy đã bị loại trừ); đó là nơi có thể nói là cha bằng vai với con trai,40 không có tuyên bố giải thích nào như vậy có thể nói ‘bà ấy bằng vai với cái kia’. Hơn nữa, việc liên kết cái mère với khái niệm thặng dư này có liên quan đến câu hỏi về phần còn lại—và những gì vẫn bị loại trừ và nằm ngoài mô hình gia đình Kitô giáo/Hegelian chính xác là người mẹ. Sau đó trong cột Hegel, một lối chơi tương tự được thực hiện với các từ “Materie” (tiếng Đức, vật chất) và “mater” (tiếng Latin, mẹ).41 Do đó, trong cột Hegel, cột liên kết chặt chẽ với người cha, chế độ gia trưởng và chủ thuyết dương vật-trung tâm, có thể tìm thấy các bản [tái] ký đáng chú ý về nhà ngoại và nữ quyền. Những gì chúng ta thấy sau đó là Derrida đánh dấu bằng tên người cha trong cột Genet và tên của [những] người mẹ có thể thấy trong cột Hegel. Các khuôn khổ chính của sự công nhận và phân tích đã bị đảo ngược—mối quan hệ của hai cột trái ngược nhau, với tư cách đối lập nhau, bắt đầu xuất hiện như một mối quan hệ đối lập, tính gần gũi hoặc chạm vào nhau.

Ham muốn, Bái vật giáo và Hàm ý Tình dục

Có thể xác định được một hiệu ứng tương tự đối với khái niệm ham muốn khi nó hoạt động trong hai cột của Glas và các judase thông qua một loạt hàm ý ít nhiều ngầm định do Derrida rút ra. [Tr.224] Hệ thống Hegelian được cho là quy cho mọi thứ một vị trí thích hợp—điều này mở rộng đến cách thức mà Hegel xử lý sự khác biệt về giới tính. Derrida viết rằng, trong Hegel, “‘[s]ự tách biệt của hai giới tính’ thể hiện một cấu trúc tách biệt thật sự độc đáo”42; thực ra khác biệt về giới tính được bản chất hóa theo các đặc điểm thể chất của các cơ quan sinh dục. Sự khác biệt về các đặc điểm thể chất của hai giới tính hoạt động như một cơ sở hợp lý rõ ràng cho một loạt hệ thống phân cấp về giới. Tính “vẫn phong kín” của các cơ quan sinh dục nữ có liên hệ trực tiếp với tính thụ động của nữ giới theo cách mà “‘[â]m vật là cảm giác bất hoạt dược nói chung’”; trong khi đó, đối với cơ quan sinh dục nam “bản chất nằm ở sự khác biệt”, ở sự khác biệt của nó với cơ quan sinh dục nữ “thờ ơ”, bất hoạt dược.43

Cơ quan sinh dục nam chủ động phân biệt chính nó; do đó, “[k]hác biệt về giới tính tái tạo sự đối lập theo thứ bậc của tính thụ động với hoạt động, của vật chất với hình thức.”44 Sự khác biệt về giới tính được khắc phục thông qua giao hợp: “Giao hợp làm giảm bớt sự khác biệt.”45 Hơn nữa, giao hợp tiến triển cụ thể thông qua hôn nhân, “Cái Einssein bản thể-một của những cặp phối ngẫu”46 chính xác là “Thủ tiêu Aufhebung khác biệt về giới tính.”47 Hôn nhân gắn liền với gia đình—“hôn nhân là khoảnh khắc đầu tiên của gia đình”48—và với chế độ một vợ một chồng, một điểm mà Derrida liên tục nhấn mạnh, trích dẫn nhiều đoạn trong Rechtsphilosophie - Triết học Pháp quyền: “‘Hôn nhân, và về bản chất là chế độ một vợ một chồng, là một trong những nguyên tắc tuyệt đối mà Sittlichkeit đời sống đạo đức của một cộng đồng phụ thuộc vào’”, và, “‘Về bản chất, hôn nhân là chế độ một vợ một chồng’.”49 Tất nhiên, điều này phù hợp theo nhiều cách với mối liên hệ của hệ thống Hegelian với gia đình Cơ đốc giáo. Do đó, liên quan đến vấn đề ham muốn, người đàn ông gia đình Cơ đốc giáo duy lý Hegel được coi là đang thúc đẩy một hệ thống vốn dị-tính-luyến, dị-tính-luyến-định chuẩn và lại chủ trương dương vật-trung tâm luận.

Ngược lại, Genet, tên tội phạm và kẻ đồng tính, trưng bày vô số mảnh vỡ phát triển thành “một lý thuyết hoặc một sự kiện tương đương chung: của các chủ thể […] của các khuôn khổ, của những điều trái ngược được trao đổi không hồi kết”.50 Derrida mô tả những người bạn tù trong những câu chuyện tù tội của Genet “những kẻ thẳng đơ, giống nhau và thay thế cho nhau trong im lặng như những chữ cái trên trang giấy, chữ này thay thế chữ kia, chữ này thay cho chữ kia”.51 Do đó, cột Genet của Glas làm nổi bật sự lưu thông của mọi đối tượng mà không có vị trí thích đáng nào, tính thay thế của các đối tượng không có bản chất. Tính thay thế và lưu thông chung này được liên kết trong Glas với sự phân mảnh của ham muốn và vô số người tình, trái ngược hoàn toàn với quan niệm của Hegel về nhất tính đạo đức của ham muốn đạt được thông qua giao hợp/hôn nhân một vợ một chồng.

Không giống như Hegel, ham muốn của Genet không dẫn đến sự khuất phục duy lý của khác biệt thông qua hôn nhân—ngược lại, Derrida trích dẫn Genet cho rằng, “‘[p]hấn khích của tôi [émoi] [tr.225] là sự dao động từ này sang kia’, sự thay thế chưa quyết định giữa hai các biểu nghĩa [...] đối lập.”52 Do đó, ham muốn này cũng là một ham muốn phi dương vật—nó không được cấu trúc xung quanh một đối tượng đơn lẻ và thiết yếu mà theo sự lưu thông của vô vàn mảnh vỡ có thể thay thế được. Theo nghĩa này, ham muốn kỳ quặc của Genet được đưa lên hàng đầu như một ham muốn “phi lý”. Một lần nữa, sự tương phản giữa Hegel và Genet được hiểu là một phần của quá trình chung nhằm giải cấu trúc hệ thống Hegelian, ví dụ như Clare Blackburn đã thảo luận về cách thức mà “tính bất hợp pháp, tội phạm, đồng tính luyến ái và khuynh hướng vagabond ma cà bông của Genet đối lập với các giá trị Hegelian về gia đình, xã hội dân sự [định chuẩn dị tính] và Cơ đốc giáo” có thể “làm mất ổn định sự vững chắc hiển minh [...] của hệ thống”.53

Tuy nhiên, một lần nữa, tôi cho rằng ham muốn không chỉ được mô tả theo cách đơn giản như vậy trong Glas, thật ra ham muốn lý trí của Hegel bị suy yếu bởi sự xâm nhập của các yếu tố trong cuộc sống cá nhân và riêng tư của Hegel và tính phi lý rõ ràng trong ham muốn của Genet lại dựa trên trò chơi thay thế vô hạn bị thách thức bởi vấn đề bái vật giáo. Giữa chừng cuộc thảo luận về cách diễn giải Antigone của Hegel, văn bản bị ngắt quãng, bởi mười hai trang trích đoạn từ các bức thư của Hegel, như một tên judas khác. Những lá thư được gửi đến nhiều nhân vật: người bạn thân thiết của gia đình ông là Nanette, vị hôn thê/người vợ Marie, và người bạn đồng thời là nhà thần học Friedrich Immanuel Niethammer. Những lá thư đầu tiên được gửi đến Nanette Endel, được giới thiệu trong một đoạn ngắn gọn là “người phụ nữ trẻ sống trong ngôi nhà của gia đình. Nếu người ta tin vào nhận xét của Bourgeois [Bernard Bourgeois, một học giả nổi tiếng người Pháp về Hegel], thì cô ấy ‘đã truyền cảm hứng [cho Hegel] bằng một cảm tình có lẽ là yêu đương […]’ […] Nana luôn có thể đóng vai người chị em.”54

Gợi ý này nổi bật tới mức cực đoan trong tập thư tuyển chọn; Hegel viết, “Tôi biết ơn em xiết bao vì […] thiện chí bù đắp cho tôi cuộc trò chuyện bằng thư về việc để mất đi tình bầu bạn của em […] một số phận miễn cưỡng dồn ép trói buộc tôi vào đó. Nhưng nó đã bị khuất phục bởi sức mạnh trí tưởng tượng của tôi […] âm thanh giọng nói của em, cái nhìn dịu dàng của đôi mắt em, và tất cả những gì mà cuộc đời kiêu hãnh hơn mọi từ ngữ được viết ra”.55 Tiếp theo: “Tôi bị tứ phía vây bọc bởi những đồ vật gợi nhớ đến em”56; “Ngay khi tôi thôi buộc em phải ngoan đạo, thì mọi chuyện đã kết thúc”57; “Em có mọi lý do để cho rằng những mối quan hệ lâu dài hơn với tôi làm em thoải mái hơn nhiều và mang lại cho em niềm vui lớn hơn”58; “Chắc chúng ta [tr.226] đã quá say mê khiêu vũ—hệt như buổi tối trước khi ra đi và kể từ đó, em đã quay cuồng trong các vũ điệu kia.”5 Tiếp theo là những bài thơ Hegel viết cho vị hôn thê Marie của mình. Terry Pinkard, người viết tiểu sử của Hegel, đã mô tả những bài thơ này khá hay; những bài thơ “hẳn không phải là nền tảng cho danh tiếng của Hegel trong lịch sử tư tưởng; ngược lại, đó chỉ là một phong cách bán lãng mạn, ít nhiều nhàm chán”.60 Hegel sử dụng hình ảnh phượng hoàng để tượng trưng cho tình yêu như sự kết hợp của hai người dẫn đến một tính cách và cam kết chung; “phượng hoàng tượng trưng cho chính con đường mà những gì chia cắt hai kẻ yêu nhau tan biến khi tình yêu đích thực tiếp lấy và lần hồi tái thiết chính bản thân nó.”61

_______________________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: Jessica Marian (2015). Styling against Absolute Knowledge in Derrida's Glas, In Parrhesia 24 · 2015 · 217-238

Note

1. Jean Genet, Funeral Rights. Trans. Bernard Frechtman. New York: Grove Press, 1994, 157.

2. Jacques Derrida, “The Time of a Thesis: punctuations” Philosophy in France Today. Ed. Alan Montefiore. Trans. Kathleen McLaughlin. Cambridge: Cambridge University Press, 1983, 46.

3. C.f. Jacques Derrida, Glas. Trans. John P. Leavey and Richard Rand. Lincoln: University of Nebraska Press, 1986, 115b.

4. Peter Krapp, Déjà vu. Aberrations of Cultural Memory. Minneapolis: University of Minnesota Press, 2004, 200.

5. Geoffrey Bennington, Legislations: the Politics of Deconstruction. London: Verso, 1994, 114.

6. Stuart Barnett, “Introduction: Hegel Before Derrida” Hegel After Derrida. Ed. Stuart Barnett. London: Routledge, 1998, 33.

7. Simon Critchley, “A Commentary Upon Derrida’s Reading of Hegel in Glas” Hegel After Derrida. Ed. Stuart Barnett. London: Routledge, 1998, 224. (Emphasis in original.)

8. Ian Magedera, “Seing Genet, Citation and Mourning; a propos Glas by Jacques Derrida” Paragraph 21:1 (1998, 40).

9. James Creech, “Outing Jean Genet” Genet: In the Language of the Enemy. Ed. Scott Durham. Yale French Studies 91 (1997, 129).

10. Jacques Derrida, “Countersignature”. Trans. Mairéad Hanrahan. Paragraph 27:2 (2004, 11).

11. Derrida, “Countersignature”, 11.

12. Derrida, “Countersignature”, 19.

13. Derrida, Glas, 34b.

14. Derrida, Glas, 35b.

15. Derrida, Glas, 34b.

16. Derrida, Glas, 183b

17. Derrida, Glas, 98b.

18. Hélène Cixous and Catherine Clément, The Newly Born Woman. Trans. Betsy Wing. Minneapolis: University of Minnesota Press, 1986, 84.

19. Drucilla Cornell, Beyond Accommodation: Ethical Feminism, Deconstruction and the Law. Lanham: Rowman and Littlefield, 1999, 153.

20. Cornell, Beyond Accomodation, 153.

21. Cornell, Beyond Accomodation, 153.

22. Derrida, Glas, 33a.

23. Derrida, Glas, 31a.

24. Patricia Jagentowicz Mills, “Hegel’s Antigone” Feminist Interpretations of G. W. F. Hegel. Ed. Patricia Jagentowicz Mills. University Park: The Pennsylvania State University Press, 1996, 59.

25. Mills, “Hegel’s Antigone”, 59.

26. Derrida, Glas, 142a.

27. Mills, “Hegel’s Antigone”, 84; also see Derrida, Glas, 188a-191a.

28. Cornell, Beyond Accomodation, 155.

29. Gayatri Chakravorty Spivak, “Glas-Piece: A Compte Rendu” Diacritics 7:3 (1977, 24).

30. John P. Leavey, Jr., “This (then) will not have been a book…” GLASsary. Ed. John P. Leavey, Jr. Lincoln: University of Nebraska Press, 1986, 112-22; Spivak, “Glas-Piece”, 24; Geoffrey Hartman, Saving the Text: Literature, Derrida, Philosophy. Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1981, 32,

33, 94, 103; Marie Maclean, Name of the Mother: Writing Illegitimacy. London: Routledge, 1994, 209; and many others.

1. I owe this insight to a comment made by Mairead Hanrahan at the London Graduate School’s 2014 Summer Academy.

32. Derrida, Glas, 24a.

33. Derrida, Glas, 262b.

34. Derrida, Glas, 4a.

35. Derrida, Glas, 1a.

36. Derrida, Glas, 61ai.

37. Derrida, Glas, 61ai.

38. Derrida, Glas, 61ai.

39. Derrida, Glas, 67.

40. See Derrida, Glas, 24a.

41. Derrida, Glas, 70a.

42. Derrida, Glas, 110a.

43. Derrida, Glas, 111-12a.

44. Derrida, Glas, 113a.

45. Derrida, Glas, 111a.

46. Derrida, Glas, 131a.

47. Derrida, Glas, 131a.

48. Derrida, Glas, 124a.

49. Derrida, Glas, 124a.

50. Derrida, Glas, 43b.

51. Derrida, Glas, 38b.

52. Derrida, Glas, 190b.

53. Clare Blackburn, “(Up) Against the (In) Between: Interstitial Spatiality in Genet and Derrida”

Parrhesia 3 (2007, 30).

54. Derrida, Glas, 151ai.

55. Derrida, Glas, 152ai.

56. Derrida, Glas, 152ai.

57. Derrida, Glas, 153ai.

58. Derrida, Glas, 154ai.

59. Derrida, Glas, 155ai.

60. Terry Pinkard, Hegel: A Biography. New York: Cambridge University Press, 2000, 296.

61. Derrida, Glas, 297.