Powered By Blogger

Thứ Ba, 21 tháng 7, 2020

Lý thuyết Cấu trúc: Nhị tính, Tác tố và Biến đổi1 (I)


William H. Sewell, Jr.

Người dịch: Hà Hữu Nga


Cấu trúc là một trong những khái niệm quan trọng nhất, khó nắm bắt và nghèo lý thuyết trong khoa học xã hội. Đặt ra từ một bài phê bình và cải đổi quan niệm của Anthony Giddens về nhị tính của cấu trúc và khái niệm habitus thói quen của Pierre Bourdieu, bài viết này cố gắng phát triển một lý thuyết về cấu trúc khôi phục lại tác tố con người cho các tác nhân xã hội, xây dựng khả tính thay đổi khái niệm cấu trúc và khắc phục sự phân chia giữa các tầm nhìn ngữ nghĩa duy vật luận về cấu trúc.

Cấu trúc là một trong những thuật ngữ quan trọng nhất và khó nắm bắt nhất trong vốn từ vựng của khoa học xã hội hiện tại. Khái niệm này là trung tâm không chỉ trong các trường phái có dùng “cấu trúc” để đặt tên như chức năng luận cấu trúc, cấu trúc luận và hậu cấu trúc luận, mà còn là trung tâm hầu như trong tất cả các xu hướng tư duy khoa học xã hội. Nhưng nếu các nhà khoa học xã hội thấy không thể làm việc được nếu không có thuật ngữ cấu trúc, thì chúng ta cũng thấy gần như không thể định nghĩa được một cách đầy đủ. Nhiều người trong chúng ta chắc chắn đã có kinh nghiệm khi sinh viên ngây thơ hỏi về ý nghĩa của cấu trúc mà chúng ta vẫn nói, và sau đó cảm thấy khó khăn bối rối khi định nghĩa thuật ngữ mà không sử dụng từ cấu trúc hoặc một trong các biến thể của nó theo cách xác định riêng. Đôi khi chúng ta thấy có cái đó dường như là một từ đồng nghĩa có thể chấp nhận - ví dụ, “mô thức” - nhưng tất cả các từ đồng nghĩa như vậy đều thiếu sức mạnh tu từ của cái nguyên gốc. Khi bắt đầu chỉ ra một mối quan hệ là có bền chặt hay quan trọng, chắc chắn sẽ có sức thuyết phục hơn khi chỉ định nó là có tính “cấu trúc hơn là tạo mô thức”.

Thuật ngữ cấu trúc trao quyền cho những gì nó chỉ định. Cấu trúc, theo danh cách của nó, luôn bao hàm cấu trúc theo nghĩa ngoại động từ. Bất cứ khía cạnh nào của đời sống xã hội chúng ta chỉ định cấu trúc thì đều được đặt ở vị thế“tạo cấu trúc cho một khía cạnh khác của tồn tại xã hội - cho dù đó là giai cấp cấu trúc nên chính trị, giới cấu trúc nên các cơ hội việc làm, các quy ước tu từ cấu trúc nên các văn bản, lời nói, còn phương thức sản xuất thì cấu trúc nên các thành h xã hội. Cấu trúc vận hành trong diễn ngôn khoa học xã hội như một phương cách ẩn dụ mạnh mẽ, xác định một phần của một thực tại xã hội phức tạp như là giải thích cái toàn thể. Đó là một từ có ảnh hưởng lớn trong khoa học xã hội. Trên thực tế, cấu trúc không phải là một khái niệm chính xác so với một kiểu ẩn dụ sáng lập hay nhận thức luận của diễn ngôn khoa học xã hội - và khoa học.2 Vì lý do này, không có định nghĩa chính thức nào có thể thành công trong việc cố định ý nghĩa của thuật ngữ đó: ẩn dụ của cấu trúc tiếp tục tính thiết yếu của nó nếu có điều gì đó bí ẩn vận hành trong cấu thành của tri ​​thức khoa học xã hội bất chấp những nỗ lực định nghĩa của các lý thuyết gia.

Tuy nhiên, có ba vấn đề trong việc sử dụng thuật ngữ
này hiện nay khiến cho việc tự ý thức lý thuyết hóa về các ý nghĩa của cấu trúc có vẻ đáng giá. Vấn đề cơ bản nhất là ở chỗ các lập luận cấu trúc hoặc cấu trúc luận có xu hướng giả định một quyết định luận nhân quả quá cứng nhắc trong đời sống xã hội. Những đặc điểm đó của sự tồn tại xã hội được gọi là các cấu trúc có xu hướng được thống nhất và được coi là chủ yếu, rành mạch và bất biến, giống như những chiếc dầm của một tòa nhà, trong khi các sự kiện hoặc quá trình xã hội mà chúng cấu trúc nên có xu hướng được coi là thứ yếu và bề mặt, như “làn da” bên ngoài của một tòa nhà chọc trời, hoặc có thể thay đổi trong các ràng buộc cấu trúccứng, giống như cách bố trí các văn phòng trên các tầng được xác định bởi một bộ khung dầm. Những gì có xu hướng bị mất đi trong ngôn ngữ cấu trúc chính là hiệu lực của hành động con người hoặc “tác tố” – ở đây tôi sử dụng cái thuật ngữ hiện đang được ưa chuộng này. Các cấu trúc có xu hướng xuất hiện trong các diễn ngôn khoa học xã hội là bất khả xâm phạm đối với tác tố con người, để tồn tại riêng biệt, tuy nhiên để xác định hình dạng thiết yếu của, những nỗ lựccác giao dịch làm động lực thúc đẩy tạo thành bề mặt kinh nghiệm của đời sống xã hội. Một khoa học xã hội bị mắc bẫy trong một ẩn dụ cấu trúc chưa được khám phá có xu hướng quy giản các tác nhân thành những thiết bị tự động được lập trình khéo léo. Một vấn đề thứ hai và liên quan chặt chẽ với khái niệm cấu trúc là nó làm cho việc xử lý thay đổi trở nên khó xử. Ẩn dụ của cấu trúc ngụ ý tính ổn định. Vì lý do này, ngôn ngữ cấu trúc dễ dàng thích ứng với các giải thích về cách thức mà cuộc sống xã hội được định hình thành các mô thức nhất quán, nhưng lại không thích ứng với các giải thích về cách thức mà các mô thức này thay đổi theo thời gian. Trong diễn ngôn cấu trúc, sự thay đổi thường nằm bên ngoài các cấu trúc, hoặc trong một telos mục đích  của lịch sử, trong các khái niệm về sự cố hoặc trong các ảnh hưởng ngoại sinh đối với hệ thống đang được đề cập. Do đó, việc chuyển từ các câu hỏi về sự ổn định sang các câu hỏi về sự thay đổi có xu hướng liên quan đến những thay đổi nhận thức luận vụng về.

Vấn đề thứ ba là theo một trật tự khá khác nhau: thuật ngữ cấu trúc được sử dụng theo những ý nghĩa rõ ràng mâu thuẫn trong các diễn ngôn khoa học xã hội khác nhau, đặc biệt là trong xã hội học và nhân học. Các nhà xã hội học điểm hình hay đối lập “cấu trúc” với văn hóa. Cấu trúc, trong các sử dụng chuẩn thường xã hội học, được coi là cứng hoặc mang tính “vật chất và do đó là chính yếu và xác định, trong khi văn hóa được coi là mềm hoặc mang tính “tinh thần”, do đó là thứ yếu hoặc dẫn xuất. Ngược lại, các nhà khoa học xã hội thiên về ngữ nghĩa, đặc biệt nhất là các nhà nhân học, coi văn hóa là vị trí ưu việt của cấu trúc. Trong cách sử dụng điển hình nhân học, thuật ngữ cấu trúc được giả định để chỉ lĩnh vực văn hóa, ngoại trừ khi nó được biến đổi bằng tính từ xã hội. Hệ quả là, các nhà khoa học xã hội khác nhau về cách nhìn như Theda Skocpol và Marshall Sahlins có thể được chỉ định là các “nhà cấu trúc luận” bởi các chuyên ngành tương ứng của họ. Tóm lại, các nhà xã hội học và nhân học, có xu hướng hình dung bản chất và vị trí của cấu trúc theo những cách thức khác biệt rõ ràng, thực sự không tương thích với nhau.3

Theo
cách nhìn của tất cả các vấn đề này với khái niệm cấu trúc, thật hấp dẫn để kết luận rằng thuật ngữ này chỉ đơn giản nên được loại bỏ. Nhưng điều này, tôi nghĩ, là không thể: cấu trúc là một thuật ngữ quá mạnh về phương diện tu từ học và có sức lan tỏa mà bất kỳ nỗ lực nào để hợp thức hóa việc bãi bỏ nó sẽ là vô ích. Hơn nữa, cái khó là ở chỗ khái niệm cấu trúc thực sự là tên gọi của một thứ gì đó rất quan trọng về quan hệ xã hội: xu hướng của các mô thức quan hệ được tái tạo, ngay cả khi các tác nhân tham gia vào các mối quan hệ đó không có ý thức gì về các thức hoặc không mong muốn tái sản xuất chúng. Theo tôi, khái niệm cấu trúc cũng không thể cũng như không nên bị loại bỏ khỏi các diễn ngôn của khoa học xã hội. Nhưng nó cần phải được suy nghĩ lại ở một phạm vi rộng lớn. Bài viết này sẽ cố gắng phát triển một lý thuyết về cấu trúc khắc phục ba điểm yếu chính của khái niệm này vì nó thường được sử dụng trong khoa học xã hội. Lý thuyết này sẽ cố gắng: i) công nhận tác tố của các tác nhân xã hội, ii) xây dựng khả tính thay đổi khái niệm cấu trúc;iii) vượt qua sự phân chia giữa các tầm nhìn ngữ nghĩa duy vật luận về cấu trúc. Chiến lược của tôi sẽ là bắt đầu từ những gì tôi coi là các công thức hiện tồn có triển vọng nhất - khái niệm về “nhị tính cấu trúc của Anthony Giddens và, điểm tiếp theo trong luận cứ, khái niệm habitus thói quen của Pierre Bourdieu - và để phát triển một lý thuyết đầy đủ hơn bằng phương pháp phê bình, tái hệ thống hóa và xây dựng.4

1. Nhị tính Cấu trúc: Phê phán và Tái hệ thống hóa Lý thuyết Giddens

Nỗ lực bền bỉ nhất trong việc tái khái niệm hóa cấu trúc trong lý thuyết xã hội gần đây đã được Anthony Giddens thực hiện, từ giữa những năm 1970 ông khẳng định rằng các cấu trúc phải được coi là “kép” (Giddens 1976, 1979, 1981, 1984). Bằng cách này, ông muốn nói rằng chúng “vừa phương tiện vừa là kết quả của các thực tiễn cấu thành các hệ thống xã hội (Giddens 1981, tr. 27). Các cấu trúc định hình các thực tiễn của con người, nhưng đó còn là các thực tiễn của con người cũng cấu thành (và tái tạo) các cấu trúc. Theo quan điểm này, tác tố con người và cấu trúc, không bị đối lập, thực tế là bao hàm lẫn nhau. Các cấu trúc được thực thi bởi những gì Giddens gọi là các tác nhân con người hiểu biết” (tức là, những người biết mình đang làm gì và làm như thế nào), và các tác nhân hành động bằng cách đưa vào thực hành kiến ​​thức cần thiết có cấu trúc của họ. Do đó, các cấu trúc không thể được khái niệm hóa chỉ đơn giản là đặt các ràng buộc vào tác tố con người, mà là tạo điều kiện” (Giddens 1976, tr. 161). Quan niệm này về các tác nhân của con người với tư cách hiểu biết “được tạo điều kiện” ngụ ý rằng các tác nhân đó có thể đặt các năng lực tạo thành cấu trúc của họ vào vận hành theo những cách sáng tạo hoặc đổi mới. Và, nếu đủ người hoặc thậm chí một vài người đủ mạnh mẽ hành động theo những cách sáng tạo, thì hành động của họ có thể tạo hệ quả biến đổi chính các cấu trúc đã giúp họ có năng lực hành động. Do đó các cấu trúc kép có khả năng đột biến. Không phải ngẫu nhiên mà Giddens gọi lý thuyết của mình là lý thuyết cấu trúc hóa”, cái tân dụng ngữ này chỉ rõ là cấu trúc phải được coi là một quá trình, chứ không phải là một trạng thái ổn định.

Là một sử gia xã hội tự ý thức về mặt lý thuyết, tôi thấy khái niệm nhị tính cấu trúc của Giddens đặc biệt tương đắc. Phần lớn lịch sử xã hội hay nhất trong phần tư thế kỷ vừa qua đã áp dụng chiến lược lý thuyết ẩn tàng hoàn toàn nhất quán với lý thuyết của Giddens. Trong thực tế, các sử gia xã hội đã thay đổi đáng kể các khái niệm xã hội học và nhân học về cấu trúc mà họ bắt đầu vay mượn một cách say sưa trong những năm 1960 và 1970. Mặc dù có lẽ họ đã viết bằng bản năng nghề nghiệp hơn là bằng sự cân nhắc lý thuyết thận trọng, nhưng các sử gia xã hội đã chứng minh bằng rất nhiều lần rất nhiều địa điểm, trong thực tế các cấu trúc mang tính kép ra sao: tư tưởng, động cơ và ý định của các tác nhân lịch sử được cấu thành như thế nào bởi các nền văn hóa và các thể chế xã hội nơi chúng được sinh ra, các nền văn hóa và các thể chế này được tái tạo ra sao bởi các hành động được tạo hình và ràng buộc về cấu trúc của các tác nhân đó, và cả trong những cảnh huống nhất định, các tác nhân có thể (hoặc bị buộc phải) ứng biến hoặc đổi mới bằng những cách thức được tạo hình về phương diện cấu trúc, mà những cách thức đó tái cấu hình đáng kể chính các cấu trúc cấu thành chúng. Giddens đã đạt đến lập trường của mình bằng cách phê phán lý thuyết nhằm dung hòa hiện tượng học, tương tác luận phương pháp luận tộc người với Marx, Durkheim và Weber; ông đã tỏ ra ít quan tâm đến công trình của các nhà sử học xã hội. Tuy nhiên, tôi tin rằng quan niệm của Giddens về nhị tính của cấu trúc về phương diện lý thuyết đã bo lãnh cho những gì các sử gia xã hội (và trong những năm gần đây, nhiều nhà xã hội học lịch sử và nhà nhân học lịch sử cũng) thực hiện trong thực tế.

1.1. Cấu trúc là gì?

Nhưng
mặc dù triển vọng của nó, lý thuyết của Giddens vẫn phải chịu những khoảng trống nghiêm trọng và những thiếu hụt logic đã tồn tại suốt qua các tái khẳng định quá nhiều của lý thuyết này (về các khẳng định chủ yếu, xem Giddens [1976, 1979, 1984]). Đáng ngại nhất, cấu trúc - thuật ngữ trung tâm của lý thuyết Giddens - vẫn chưa được xác định rõ ràng. Khác với hầu hết các nhà khoa học xã hội, ông không để cho thuật ngữ hoàn toàn không xác định mà chỉ đơn giản cho phép nó thực hiện cái công việc ma thuật quen thuộc của nó trong tâm trí độc giả. Đặc biệt trong Vấn đề Trung tâm trong Lý thuyết Xã hội (1979), ông thảo luận về cấu trúc với một độ dài nhất định. Nhưng tôi không nghĩ rằng khái niệm cấu trúc mà ông thảo ra đoạn đó hoặc ở chỗ khác đã rõ ràng hoặc có sức thuyết phục mạnh mẽ đủ làm nền tảng cho một hệ thống lý thuyết. Giddens chính thức định nghĩa cấu trúc trong một số công trình, bao gồm cả trong phần chú giải của Cấu thành Xã hội: Phác thảo Lý thuyết Cấu trúc hóa (“The Constitution of Society: Outline of the Theory of Structuration). Các quy tắc và nguồn lực, liên quan theo cách đệ quy đến việc tái sản xuất các hệ thống xã hội. Cấu trúc chỉ tồn tại như các dấu vết ký ức, nền tảng hữu cơ của tri thức tính con người và như được minh chứng trong hành động. [1984, tr. 377]

Định nghĩa còn rất thô sơ này đòi hỏi phải được bình giải. Các thuật ngữ “các quy tắc và các nguồn lực”, bất chấp tính giản phác dễ gây nhầm lẫn của chúng, vẫn khá mơ hồ và sẽ phải được thảo luận dài. Do đó, chúng ta hãy bắt đầu với phần còn lại của định nghĩa, được diễn đạt theo kiểu bí quyết nghề nghiệp nhưng lại tương đối đơn giản về nghĩa. Bằng “các hệ thống xã hội Giddens muốn nói đến các thực hành xã hội tương đối ràng buộc, có thể quan sát được về phương diện kinh nghiệm, bện chặt lấy nhau, liên kết các cá thể người xuyên thời gian và không gian. Các hệ thống xã hội có lẽ bao gồm những gì hầu hết các nhà khoa học xã hội muốn nói đến bằng khái niệm “các xã hội nhưng có lẽ cũng bao gồm các đơn vị xã hội lớn hơn (ví dụ, hệ thống thế giới tư bản) hoặc hạn chế về phạm vi (ví dụ, cộng đồng láng giềng) so với hình thức nhà nước dân tộc. Theo Giddens, các hệ thống xã hội không tồn tại tách khỏi các thực tiễn cấu thành nên chúng và các thực tiễn này được tái sản sinh bằng các cách trình hiện (enactment) “đệ quy (nghĩa là lặp lại) của các cấu trúc. Các cấu trúc không phải là các thực tiễn xã hội được mô thức hóa tạo nên các hệ thống xã hội, mà là các nguyên tắc mô thức hóa các thực tiễn này. Do đó các cấu trúc chỉ có cái mà ông gọi bằng thuật ngữ sự tồn tại ảo (ví dụ: 1984, tr. 17). Các cấu trúc không tồn tại cụ thể trong thời gian và không gian ngoại trừ là “các dấu vết ký ức, nền tảng hữu cơ của tri thức tính” (chỉ các ý tưởng hoặc lược đồ lưu lại trong não người) và khi chúng được “thể hiện bằng hành động” (nghĩa là được đưa vào thực tiễn) .

Cấu trúc như là các quy tắc

Vậy ra các cấu trúc là ảo và được đưa vào thực tế trong quá trình sản xuất và tái sản xuất đời sống xã hội. Nhưng những cấu trúc này bao gồm những gì? Theo định nghĩa của Giddens, chúng bao gồm các quy tắc và các nguồn lực.” Khái niệm các quy tắc của Giddens phần lớn xuất phát từ cấu trúc luận Pháp. Điều này đặc biệt rõ ràng trong Quy tắc mới của Phương pháp Xã hội học và các Vấn đề Trung tâm của Lý thuyết Xã hội. Trong cả hai thành phần này, ông dựa rất nhiều vào phép loại suy cấu trúc luận điển hình với ngôn ngữ học Saussurian. Giddens ví sự phân biệt giữa cấu trúc và thực hành của riêng ông với sự phân biệt giữa langue ngôn ngữ parole lời nói Saussurian. Theo phép loại suy này, cấu trúc là dành cho việc thực hành như langue ngôn ngữ (các quy tắc trừu tượng khả năng tạo ra các câu theo đúng quy tắc ngữ pháp) là dành cho parole (lời nói, hoặc tạo ra các câu nói thực tế; 1976, tr. 118-22). Do đó, cấu trúc, giống như langue ngôn ngữ, là một phức hợp của các quy tắc với sự tồn tại ảo, trong khi thực tế, như lời nói, là sự trình hiện của các quy tắc này trong không gian và thời gian. Đối với một nhà cấu trúc luận người Pháp thì cấu trúc là sự phức tạp của các quy tắc như vậy. Ví dụ, đối với Lévi- Strauss, cấu trúc đề cập đến tập hợp các quy tắc cho phép các đối lập nhị phân được sắp xếp vào các huyền thoại (Lévi-Strauss 1963). Trong Vấn đề Trung tâm của Lý thuyết Xã hội (1979, tr. 62-64), Giddens khẳng định tính tương đồng của khái niệm cấu trúc của ông với khái niệm cấu trúc của Lévi-Strauss. Nhưng ông cũng cố gắng phân biệt mình với các nhà cấu trúc luận Pháp, một phần bằng cách kiên định rằng, bởi vì các cấu trúc ràng buộc thời gian và không gian, nên chúng phải được khái niệm hóa như là bao gồm không chỉ các quy tắc mà còn cả các nguồn lực (1979, tr. 63-64). Tuy nhiên, Giddens bmặc thảo luận về các quy tắc treo lơ lửng ông không đưa ra được các ví dụ về các quy tắc làm nền tảng cho bất kỳ thực tiễn xã hội thực tế nào. Tất cả những gì chúng ta biết từ Vấn đề Trung tâm của Lý thuyết Xã hộiở chỗ các quy tắc là ảo và bằng cách nào đó chúng tạo ra các thực tiễn xã hội và các hệ thống xã hội.

Trong
Cấu thành Xã hội, tuyên bố gần đây nhất về lý thuyết của mình, Giddens rút lui thậm chí còn xa hơn khỏi quan niệm về các quy tắc kiểu Lévi-Straussian. Giờ đây nắm lấy manh mối từ Wittgenstein, ở đó Giddens định nghĩa các quy tắc một cách đơn giản, nhưng theo tôi, với một hứa hẹn tuyệt vời: Chúng ta hãy coi các quy tắc của đời sống xã hộinhững thủ tục có thể khái quát hóa được áp dụng trong việc trình hiện/ tái tạo đời sống xã hội (1984, tr. 21). Định nghĩa này về các quy tắc như các thủ tục có thể khái quát hóa tất nhiên có thể bao gồm các quy tắc chuyển đổi Lévi-Straussian, nhưng nó cũng hàm ý cái khả tính của các quy tắc của một loạt loại hình. Tuy nhiên Giddens không đưa ra ví dụ hoặc phát triển các loại hình học của các loại thủ tục có thể khái quát hóa ông có trong tâm trí. Do đó, quan niệm của ông về các quy tắc, nếu có bất cứ quy tắc nào, trong Cấu thành Xã hội lại nghèo nàn hơn so với bản thân nó trong Vấn đề Trung tâm của Lý thuyết Xã hội, mà chí ít thì nó cũng ngụ ý phép loại suy với Lévi-Strauss. Tuy nhiên, tôi nghĩ định nghĩa kiểu Wittgensteinian của ông về các quy tắc như các thủ tục khái quát hóa có thể được sử dụng làm nền tảng cho một quan niệm mạnh mẽ hơn.

Trong suốt lý thuyết của mình, Giddens đặt trọng tâm rất lớn vào quan niệm cho rằng các tác nhân là những kẻ hiểu biết. Đó có lẽ là kiến ​​thức về các quy tắc làm cho mọi người có năng lực hành động. Nhưng Giddens không phát triển vốn từ vựng để chỉ định về việc mọi người hiểu biết về những nội dung . Tôi cho rằng một từ vựng như vậy trên thực tế đã có sẵn, nhưng được phát triển tốt nhất trong một lĩnh vực mà cho đến nay Giddens gần như vẫn hoàn toàn bỏ qua, đó chính là nhân học văn hóa. Xét cho cùng, cái thuật ngữ khoa học xã hội thông thường cho “những gì mà mọi người biết ấy chính văn hóa và những người đã xây dựng lý thuyết và nghiên cứu văn hóa hiệu quả nhất chính là các nhà nhân học. Claude Lévi-Strauss, chính là người mà Giddens coi là một nhà nhân học nghiêm túc, hầu như là người duy nhất cố định thành các cấu trúc rất sâu hoặc rất tổng quát. Cuối cùng, nỗ lực của ông là bằng các trừu tượng hóa liên tiếp để đạt tới được cấu trúc của chính bộ não con người. Ngay cả một số nhà nhân học theo cấu trúc luận, chịu ảnh hưởng Lévi-Strauss sâu sắc nhất (xem, ví dụ, Sahlins 1976, 1981, 1985) đã quan tâm rất nhiều đến việc áp dụng phương pháp của Lévi-Strauss để tìm ra các mô thức đối lập nhị phân hồi quy để làm rõ các giả định, thực tiễn và niềm tin của các dân tộc cụ thể hơn là truy tìm các đối lập như vậy ngược trở lại cái cấu trúc của tâm trí man hoặc bộ não con người.

Thay vì ở mức cấu trúc sâu được Lévi-Strauss ưa thích, tôi nghĩ chúng ta nên, giống như hầu hết các nhà nhân học, nghĩ về các quy tắc như hiện tồn ở nhiều cấp độ khác nhau. Các quy tắc gần bề mặt có thể được định nghĩa là “nông” hơn, nhưng chúng không nhất thiết ít quan trọng hơn về ý nghĩa đối với đời sống xã hội. Các quy tắc của đời sống xã hội nên được coi là bao gồm tất cả các loại lược đồ văn hóa mà các nhà nhân học đã khám phá ra trong nghiên cứu của họ: không chỉ là phổ các đối lập nhị phân tạo nên các công cụ tư duy cơ bản của xã hội, mà còn là vô số quy ước, cách thức, kịch bản, nguyên tắc hành động và thói quen nói và cử chỉ được tạo dựng nên bằng những công cụ cơ bản này.5 Thật vậy, thuật ngữ “các quy tắc có lẽ không hoàn toàn đúng, vì nó có xu hướng ám chỉ một cái gì đó giống như các đơn thuốc được chính thức tuyên bố - các loại sự vật được giải thích rõ ràng trong các luật tắc, cách ngôn, nghi lễ, hiến pháp hoặc khế ước.6 Điều tôi muốn nói không phải là các quy định được khẳng định chính thức mà là các lược đồ, ẩn dụ hoặc giả định không chính thức và không phải lúc nào cũng có ý thức được đưa ra bởi các tuyên bố chính thức đó. Tôi cho rằng trong thực tế, việc mã hóa các quy tắc cố định công khai là thực chứ không phải ảo và nên được coi các nguồn lực thay vì chỉ là các quy tắc theo nghĩa của Giddens. Do sự mơ hồ về nghĩa của từ “các quy tắc, nên tôi tin rằng việc giới thiệu sự thay đổi về thuật ngữ là rất hữu ích. Do đó, tôi sẽ sử dụng thuật ngữ lược đồ thay vì quy tắc - mặc dù điều này hủy hoại chuỗi điệp âm êm dịu của công thức rules and resources “các quy tắc và nguồn lực” của Giddens.

Các lược đồ khác nhau tạo nên các cấu trúc, để trích dẫn Giddens
, là “các thủ tục có thể khái quát hóa được áp dụng trong việc trình hiện/ tái sản xuất đời sống xã hội. Chúng “có thể khái quát hóa theo nghĩa chúng có thể được áp dụng hoặc mở rộng cho nhiều bối cảnh tương tác. Các lược đồ hoặc quy trình như vậy - cho dù các quy tắc nghi thức, các chuẩn mực thẩm mỹ, hoặc các phương cách cho hành động nhóm như tiến bộ của hoàng gia, bạo loạn ngũ cốc, bỏ phiếu dân chủ, hay một tập các đương lượng giữa ướt và khô, nữ và nam, tự nhiên và văn hóa, riêng tư và công cộng, hoặc cơ thể như một phép ẩn dụ cho trật tự thứ bậc, hoặc quan niệm cho rằng hiện hữu người được cấu thành từ một cơ thể và một linh hồn - không chỉ có thể được sử dụng trong tình huống mà lần đầu tiên họ được học hỏi hoặc áp dụng theo quy ước. Chúng có thể được khái quát hóa - nghĩa là chuyển đổi hoặc mở rộng - sang các tình huống mới khi có cơ hội. Khả tính khái quát hóa hoặc khả tính chuyển vị của các lược đồ chính nguyên do chúng phải được hiểu là ảo. Việc nói rằng các lược đồ là ảo chính là nói rằng chúng không thể bị quy giản thành tồn tại của chúng trong bất kỳ thực tiễn cụ thể hoặc bất kỳ định vị cụ thể nào trong không gian và thời gian: chúng có thể được hiện thực hóa trong một phạm vi tình huống tiềm tàng rộng lớn và không định trước được. Vì vậy tôi đồng ý với Giddens rằng các quy tắc hoặc lược đồ tạo nên các cấu trúc có thể được khái niệm hóa một cách hữu ích là tồn tại ảo”, và các cấu trúc bao gồm các thủ tục hoặc lược đồ có sẵn có tính liên chủ thể năng lực được hiện thực hóa hoặc đưa vào thực tế trong một loạt các cảnh huống khác nhau. Các lược đồ như vậy nên được coi là hoạt động ở các cấp độ sâu khác nhau, từ các cấu trúc sâu kiểu Lévi-Straussian đến các quy tắc xã giao tương đối hời hợt.

Cấu trúc như là các nguồn lực

Chắc chắn phần
nào tâm trạng bối rối của Giddens về việc chấp nhận quan niệm cấu trúc của Levi-Strauss là ở chỗ ông muốn tránh xa sự thờ ơ cao siêu của Lévi-Strauss đối với các câu hỏi về quyền lực, sự thống trị và biến đổi xã hội - thực ra là đối với các câu hỏi về thực tiễn xã hội nói chung. Có lẽ phần lớn là vì lý do này mà Giddens kiên định rằng các cấu trúc không chỉ đơn thuần là các quy tắc, mà là các quy tắc và các nguồn lực, hoặc “các tập quy tắc-nguồn lực” (1984, tr. 377). Nhưng khái niệm các nguồn lực của Giddens thậm chí còn ít được lý thuyết hóa hơn so với khái niệm quy tắc của ông.7 Tôi đồng ý với Giddens rằng bất kỳ quan niệm nào về cấu trúc mà bỏ qua các bất đối xứng của quyền lực thì triệt để không hoàn hảo. Nhưng việc phụ thêm khái niệm “các nguồn lực” kém lý thuyết hóa vào một khái niệm cơ bản dựa trên quy tắc về cấu trúc chỉ thành công trong những thứ gây khó hiểu.

Trong Vấn đề Trung tâm của Lý thuyết Xã hội, Giddens (1979, tr.92) định nghĩa các nguồn lựcphương tiện theo đó năng lực biến đổi được sử dụng như sức mạnh trong quá trình tương tác xã hội thường xuyên. Trừ khi tôi thiếu một chút tinh tế, định nghĩa với lời lẽ mơ hồ này có thể được biểu hiện bằng tiếng Anh thông thường “các nguồn lực là bất cứ thứ gì có thể đóng vai trò là nguồn sức mạnh trong các tương tác xã hội. Đối với tôi, đây dường như là một tuyên bố không có ngoại lệ và không có thông tin lý thuyết về những gì chúng ta thường muốn nói bởi các nguồn lực xã hội. Bên cạnh định nghĩa an ủi này, hầu hết tất cả những gì ông nói với chúng ta về các nguồn lựccái mà chúng có thể được phân thành hai loại, có thẩm quyền và phân bổ. Trong Vấn đề Trung tâm của Lý thuyết Xã hội, ông định nghĩa “có thẩm quyền“các năng lực tạo ra mệnh lệnh đối với các cá nhân con ngườiphân bổ“các năng lực tạo ra mệnh lệnh đối với các khách thể hoặc hiện tượng vật chất khác (1979, tr. 100). Bằng cách mở rộng, các nguồn lực có thẩm quyền phải là các nguồn nhân lực và các nguồn lực phân bổ là các nguồn lực không phải con người - một lần nữa dường như không có ngoại lệ.

Tôi tin rằng việc phân loại nguồn lực của Giddens có tiềm năng hữu ích, nhưng nó cần được cải đổisử dụng bằng thứ tiếng Anh thông thường. Các nguồn lực có hai loại, con người và không phải con người. Nguồn lực không phải con người là các vật thể, bất động hoặc vô tri, xuất hiện tự nhiên hoặc được sản xuất ra, có thể được sử dụng để tăng cường hoặc duy trì sức mạnh; nguồn lực con người hay nhân lực là sức mạnh thể chất, sự tài khéo, tri ​​thức và các cam kết cảm xúc có thể được sử dụng để tăng cường hoặc duy trì sức mạnh, bao gồm tri ​​thức về các phương tiện để đạt được, duy trì, kiểm soát và truyền các nguồn lực con người hoặc không phải con người. Cả hai loại nguồn lực ấy đều là phương tiện của quyền lực và được phân phối không đồng đều. Tuy nhiên các nguồn lực không đồng đều có thể được phân phối, còn một số biện pháp của cả nguồn lực con người và không phải con người được tất cả các thành viên trong xã hội kiểm soát, bất kể nghèo khổ và bị áp bức như thế nào. Thật vậy, một phần ý nghĩa của việc quan niệm hiện hữu người là các tác nhân là quan niệm họ được trao quyền bằng cách tiếp cận với các loại nguồn lực thuộc loại này hay loại kia.

Cấu trúc như
là Lược đồ và Nguồn lực

Việc cải đổi khái niệm nguồn lực của Giddens không làm rõ cách thức các nguồn lực và lược đồ kết hợp để tạo thành các cấu trúc. Ở đây, vấn đề rõ ràng nhất là định nghĩa cấu trúc của Giddens là ảo. Như chúng ta đã thấy, điều này tạo nên ý nghĩa hoàn hảo cho các cấu trúc được khái niệm hóa như các quy tắc hoặc lược đồ. Nhưng các nguồn lực cũng là ảo? Điều đáng ngạc nhiên là Giddens dường như không xem xét vấn đề này. Khái niệm nguồn lực ảo có vẻ đặc biệt đáng ngờ trong trường hợp các nguồn lực không phải con người (hoặc thuật ngữ của Giddens là “phân bổ”). Các nguồn lực không phải con người chắc chắn bao gồm những thứ như các nhà máy thuộc sở hữu của các nhà tư bản, các kho vũ khí do các vị vua hoặc tướng lĩnh kiểm soát, đất đai do nông dân thuê mướn, hoặc đống chăn Hudson Bay do thủ lĩnh Kwakiutl tích trữ. Rõ ràng là các nhà máy, vũ khí, đất đai và chăn Hudson Bay có một sức nặng quyết định trong việc định hình và ước thúc đời sống xã hội ở những thời gian và địa điểm cụ thể, và do đó có vẻ nhạy bén khi bằng một cách nào đó đưa chúng vào một khái niệm cấu trúc. Nhưng thật khó để nhận ra bằng cách nào có thể coi các nguồn lực vật chất như vậy là ảo, vì những sự vật vật chất, theo định nghĩa, tồn tại trong không gian và thời gian. Hơn nữa, chỉ trong những thời gian, địa điểm và số lượng cụ thể thì các đối tượng vật chất đó mới có thể đóng vai trò là các nguồn lực được.

Trường hợp nguồn nhân lực chỉ kém rõ ràng
đôi chút. Theo định nghĩa, cơ thể con người, giống như bất kỳ đối tượng vật chất nào khác, không thể là ảo. Nhưng còn kiến ​​thức và cam kết cảm xúc, các khía cạnh tinh thần của nguồn nhân lực thì sao? Có thể nêu ra các điển hình là quyền lực của linh mục Công giáo La Mã tận hiến cho đám đông và nghe lời thú tội, nghĩa vụ của con cái đối với mẹ của họ, hoặc nỗi sợ hãi và tôn kính mà các đối tượng cảm nhận đối với đức vua của họ. Không giống như các nhà máy hoặc chăn Hudson Bay, các nguồn lực như vậy không phải là vật chất, hoặc ít nhất là không có cùng ý nghĩa. Tuy nhiên, dường như chúng thực sự trái ngược với tính chất ảo. Chúng tồn tại trong cái mà Giddens gọi là không gian-thời gian; chúng là những đặc điểm có thể quan sát được của những con người thực sự sống trong những thời điểm cụ thểquần tụ ở những địa điểm cụ thể. Và chính sự hiện thực hóa của chúng trong tâm trí và cơ thể của mọi người làm cho chúng trở thành các nguồn lực. Sự uy nghi của đức vua không phải là khái niệm vô hình mà có thể mang lại cho ông ta quyền lực, mà là nỗi kính sợ của các thần dân trong thực tế của ông ta đối với ông ta. Nếu tôi đúng khi cho rằng tất cả các nguồn lực là thực tế chứ không phải ảo, thì khái niệm cấu trúc của Giddens hóa ra là tự-mâu thuẫn. Nếu các cấu trúc là ảo, chúng không thể bao gồm cả các lược đồ và các nguồn lực. Và nếu chúng bao gồm cả các lược đồ và các nguồn lực thì chúng không thể là ảo. Hoặc ông ấy hoặc chúng ta, chứ không thể cả hai đều đúng. Nhưng chúng ta nên chọn cách nào? Cách khái niệm hóa cấu trúc đơn giản nhất sẽ trở về điểm xuất phát của Giddens trong cấu trúc luận và để khẳng định rằng cấu trúc chỉ đề cập đến các quy tắc hoặc lược đồ, chứ không đề cập đến các nguồn lực, còn các nguồn lực thì phải được coi là một loại tác động của các cấu trúc. Bằng cách này, các cấu trúc sẽ giữ được phẩm chất ảo của chúng và các phân phối nguồn lực cụ thể sẽ không được xem là các cấu trúc mà là các phương tiện được hoạt hóa và được định hình bởi các cấu trúc, nghĩa là bởi các lược đồ văn hóa.

Không phải là không có lý khi tuyên bố rằng nguồn nhân lực là sản phẩm của các lược đồ. Một số lượng binh sĩ nhất định sẽ tạo ra lượng và loại sức mạnh quân sự khác nhau tùy thuộc vào các quy ước chiến tranh đương đại (chẳng hạn như các chuẩn mực đạo đức hiệp sĩ), các khái niệm về chiến lược và chiến thuật dành cho các tướng lĩnh, và các chế độ huấn luyện mà quân đội phải tuân thủ. Quyền lực của linh mục tận hiến cho đám đông xuất phát từ các lược đồ vận hành ở hai cấp độ khá khác nhau. Trước hết, việc đào tạo của một linh mục đã giúp ông ta thành thạo một loạt các kỹ năng tri ​​thức và kỹ năng tự kiểm soát hiển lộ ngầm ẩn cho phép ông ta hành động một cách thỏa đáng với tư cách một linh mục. Và thứ hai, ông ta đã được nâng lên phẩm giá của chức vị linh mục bằng một nghi lễ tấn phong, thông qua nghi thức đặt tay của một giám mục, đã huy động sức mạnh của sự kế vị tông đồ và nhờ đó ông ta có được năng lực làm nên một kỳ tích rõ ràng linh diệu – chuyển hóa bánh và rượu thành mình và máu Chúa Kitô. Nỗi kính sợ đối với các vì vua chính là biểu hiện của các quan niệm cơ bản về chức năng vũ trụ của vương quyền, các khái niệm được dệt thành vô số các diễn ngôn và nghi lễ ở mọi cấp độ trong xã hội; tương tự, các nghĩa vụ mà trẻ em cảm nhận đối với mẹ của chúng dựa trên các quan niệm về sự ràng buộc của tự nhiên, sự nuôi dưỡng và sự vâng phục được mã hóa trong nhiều lề thói của cuộc sống gia đình và trong các thuyết giáo, cách ngôn, tiểu thuyết và các công trình lý thuyết chính trị. Các ví dụ này cho thấy nguồn nhân lực có thể được coi là các biểu hiện và h quả của việc trình hiện các lược đồ văn hóa.

Nhưng trong khi chúng ta có thể nói một cách hợp lý về nguồn nhân lực được tạo ra bởi các quy tắc hoặc lược đồ, thì khó
thấy được các nguồn lực khác có thể được hình thành như thế nào. Các nhà máy, đất đai và chăn Hudson Bay có những phẩm chất vật chất chắc chắn không được tạo ra bởi các lược đồ. Nhưng cũng đúng là cảnh huống nguồn lực của chúng lại có năng lực sản xuất và tái tạo các bất cân bằng về quyền lực xã hội không hoàn toàn là nội tại trong sự tồn tại vật chất của chúng. Những gì chúng có được với tư cách nguồn lực phần lớn là kết quả của các lược đồ thông báo về việc sử dụng chúng. Trường hợp rõ ràng nhất một đống chăn Hudson Bay khổng lồ sẽ không gì khác hơn là một phương tiện giữ ấm cho một số lượng người rất lớn, nếu nó không phải là dùng cho các lược đồ văn hóa cấu thành nên loại biếu tặng của người Kwakiutl; nhưng với các lược đồ này, những chiếc chăn, được cho đi như một vật biếu tặng, đã trở thành một phương tiện thể hiện quyền lực của tù trưởng và do đó, có được uy tín, các liên minh hôn nhân, sức mạnh binh dịchlao dịch (Boas 1966; Sahlins 1989). Trong trường hợp này, các lược đồ cấu thành quà tặng đã xác định giá trị, mức độ và tác động cụ thể của chăn Hudson Bay như một nguồn lực. Nhưng tôi cho rằng điều này đúng với trường hợp loại nguồn lực không phải nhân lực nói chung. Ví dụ, phạm vi và các loại nguồn lực do một nhà máy tạo ra sẽ phụ thuộc vào việc liệu thuộc sở hữu của một nhà tư bản cá nhân hay bởi một hợp tác xã của công nhân - nói cách khác, về các quy tắc xác định bản chất của quyền sở hữu và thẩm quyền của nơi làm việc. Các nguồn lực mà nông dân có được từ đất đai mà họ sử dụng sẽ được xác định bởi các công ước về quyền sử dụng đất, các quy định của luật tục, các khoản nợ đối với họ hàng và các kỹ thuật nông nghiệp được sử dụng. Có vô số ví dụ như vậy. Các nguồn lực khác với nhân lực có sự tồn tại vật chất không thể quy giản thành các quy tắc hoặc lược đồ, nhưng việc kích hoạt các sự vật vật chất với tư cách nguồn lực, việc xác định giá trị và sức mạnh xã hội của chúng lại phụ thuộc vào các lược đồ văn hóa thông báo về việc sử dụng xã hội của chúng.

Vậy thì, rõ ràng là các nguồn lực có thể được coi một cách hợp lý là hiệu ứng của các lược đồ văn hóa. Do đó, chắc chắn có thể làm sạch khái niệm cấu trúc của Giddens bằng cách định nghĩa cấu trúc là các lược đồ sự tồn tại thuần ảo,các nguồn lực không phải là các yếu tố đồng hàng trong cấu trúc mà là phương tiện và kết quả vận hành của cấu trúc. Nhưng cần lưu ý rằng nếu chúng ta chấp nhận định nghĩa này, thì sức mạnh tu từ của thuật ngữ cấu trúc sẽ ám chỉ một hướng quan hệ nhân quả duy nhất. Cái được gọi là cấu trúc, bằng hành động mệnh danh này, được trao quyền cho cái không được gọi là cấu trúc. Các kho hàng hóa vật chất và kiến ​​thức của mọi người và các cam kết tình cảm trở nên trơ, chỉ là phương tiện cho và kết quả của các hoạt động mang tính quyết định của các lược đồ văn hóa. Nếu chúng ta kiên định rằng các cấu trúc là ảo, thì chúng ta có nguy cơ lạc vào duy tâm luận thực sự, là thứ liên tục ám ảnh cấu trúc luận, tuy nhiên phần lớn những người khởi xướng ra nó - ví dụ, Lévi-Strauss (1966, tr. 130) – lại xác nhận các khuyến nghị và ý định duy vật luận của họ. Các lược đồ - các cấu trúc tinh thần - trở thành thực thể duy nhất mang lại hình thức, còn các tác nhân thì trở thành tác nhân của các cấu trúc tinh thần này, các diễn viên chỉ có thể đọc các kịch bản có sẵn. Nói tóm lại, việc xác định các cấu trúc theo cách này đe dọa khước từ nhị tính của chúng và do đó, triệt tiêu tiền đề trung tâm của lý thuyết Giddens.
__________________________________________

Còn nữa…

Nguồn: Sewell, William H. (1992). A Theory of Structure: Duality, Agency, and Transformation. American Journal of Sociology, Vol. 98, No. 1 (Jul., 1992), pp. 1-29.

Tác giả: William H. Sewell Jr. (sinh năm 1940 tại Stillwater, Oklahoma) là một học giả người Mỹ. Ông là Giáo sư danh dự về Lịch sử và Khoa học Chính trị tại Đại học Chicago. Sewell là con trai của William H. Sewell, một nhà xã hội học và là hiệu trưởng của Đại học Wisconsin Wisconsin Madison từ năm 1967 đến năm 1968. Sewell nhận bằng Cử nhân lịch sử của Đại học Wisconsin, Madison Madison năm 1962 và bằng tiến sĩ lịch sử tại Đại học California, Berkeley năm 1971. Luận án của ông có tựa đề là Cấu trúc của tầng lớp lao động Marseille giữa thế kỷ XIX. Vị trí giảng dạy đầu tiên của ông là khoa lịch sử tại Đại học Chicago từ năm 1969 đến năm 1975. Ông là thành viên của Trường Khoa học Xã hội tại Viện Nghiên cứu Cao cấp ở Princeton, New Jersey, từ 1975 đến 1980. Ông giảng dạy tại khoa lịch sử tại Đại học Arizona từ 1980 đến 1985 và tại các khoa lịch sử và xã hội học, Đại học Michigan từ 1985 đến 1990, khi ông trở lại Đại học Chicago. Ông đã có những đóng góp trong các lĩnh vực lao động hiện đại của Pháp, lịch sử xã hội, văn hóa, chính trị và lý thuyết văn hóa xã hội.

Ghi chú

1. This article has benefited, during its many revisions, from the careful reading and constructive criticism of a large number of friends and colleagues. Although I have sometimes failed to heed their good advice, I am deeply grateful to Elizabeth Anderson, Jeffrey Alexander, Ronald Aminzade, Renee Anspach, Terry Boswell, Peggy Evans, Neil Fligstein, Steven Gudeman, Ronald Herring, Ronald Inden, David Lai-tin, Barbara Laslett, Michael Kennedy, Sherry Ortner, Sylvia Pedraza, Joan Scott, Ellen Sewell, Theda Skocpol, Ann Swidler, John Urry, Loic Wacquant, several re-viewers, and the audiences of seminars and colloquia at the University of Minnesota, the University of Michigan, Harvard University, Northwestern University, the Uni-versity of Chicago, and the Center for Advanced Study in the Behavioral Sciences (CASBS). This article was revised extensively while I was a fellow at the CASBS. I am grateful for support provided by the National Science Foundation, grant BNS- 870064, and by a fellowship from the John Simon Guggenheim Memorial Foundation.
2. The term "structure" seems to play an essentially identical role in the natural sciences. Such usages originated, as far as I am aware, in 17th- and 18th-century botany, from which they spread to other natural and social sciences (see Foucault 1973, pp. 132-38).
3. This bifurcation of the meaning of structure especially inhibits communication be-tween two groups of social scientists whose current projects seem convergent but who have thus far paid little attention to one another: the growing band of sociologists who are examining the cultural dimensions of social life and the anthropologists who are insisting on the importance of power and practice in understanding culture. For an assessment of the mushrooming field of cultural sociology, see Lamont and Wuth-now (1990). For trends in current anthropology, see the remarks of Ortner (1984, pp. 144-60).
4. It is not my purpose to develop a full critique or appreciation of Giddens or Bourdieu. The critical literature on both is growing rapidly. Held and Thompson (1989) and Bryant and Jary (1991) include not only a wide range of critiques of Giddens's work by prominent scholars but also useful bibliographical listings of previous critiques. On Bourdieu, see DiMaggio (1979), Brubaker (1985), Lamont and Lareau (1988), and Wacquant (1989). The last of these contains extensive references to critical works on Bourdieu.
5. It is not possible here to list a representative example of anthropological works that elaborate various "rules of social life." The most influential formulation of the anthropological concept of culture is probably Geertz (1973). For a superb review of recent developments in cultural anthropology, see Ortner (1984).
6. For a particularly convincing critique of the notion of "rule," see Bourdieu (1977, pp. 1-29).
7. Giddens's concept of rules has occasionally been criticized, most recently by Thomp-son (1989), but to my knowledge no one has systematically criticized his paired concept of resources.
8. Some of Bourdieu's more recent work, esp. Homo Academicus (1988), which is a study of the French professoriat in the events of 1968, deals more directly with change. I do not think, however, that Bourdieu has considered the question of how habitus itself might generate change. In Homo Academicus, e.g., change arises from sources external to the habitus he is analyzing-fundamentally from the immense rise in the population of students in French universities in the 1960s. The concept of habitus is used to argue that the professors' responses to the crisis was wholly determined by their location in the "academic field." Homo Academicus seems to indicate that Bourdieu has not overcome the lack of agency inherent in the concept of habitus elaborated in Outline of a Theory of Practice.
9. To generalize a rule implies stating it in more abstract form so that it will apply to a larger number of cases. The verb "transpose" implies a concrete application of a rule to a new case, but in such a way that the rule will have subtly different forms in each of its applications. This is implied by three of the Oxford English Dictionary's (1971, s.v. "transpose")d efinitions: "To remove from one place or time to another; to transfer, shift," "to alter the order of or the position of in a series . . . to inter-change," and, in music, "to put into a different key." Transposer, in French (which was of course the language in which Bourdieu wrote), also has an even more appro-priate meaning: "faire changer de forme ou de contenu en faisant passer dans un autre domaine," (to cause something to change in form or content by causing it to pass into another domain, Le Petit Robert [1984, s.v. "transposer"]).I would like my use of transpose to be understood as retaining something of this French meaning.
10. Here my thinking has been influenced by Goran Therborn (1980, esp. pp. 15-22).
11. " Although Marshall Sahlins (1981, 1985) does not explicitly include resources in his definition of structure, my argument here runs closely parallel to his. Sahlins argues that "in action in the world-technically, in acts of reference-the cultural categories acquire new functional values" because the categories are "burdened with the world" (1985, p. 138). This burdening of categories with the world is a matter of schemas being changed by the unanticipated effects of action on the resources that sustain the schemas.
12. John Roemer (1982) has proved to my satisfaction that capitalist exploitation can occur in the absence of wage labor.

Tài liệu dẫn

Bourdieu, Pierre. 1977. Outline of a Theory of Practice. Cambridge: Cambridge University Press.
Bourdieu, Pierre. 1988. Homo Academicus, translated by Peter Collier. Stanford, Calif.: Stan-ford University Press.
Boas, Franz. 1966. Kwakiutl Ethnography, edited by Helen Codere. Chicago: University of Chicago Press.
Brubaker, Rogers. 1985. "Rethinking Classical Social Theory: The Sociological Vision of Pierre Bourdieu." Theory and Society 14:745-75.
Bryant, Christopher G. A., and David Jary, eds. 1991. Giddens' Theory of Structura-tion: A Critical Appreciation. London: Routledge.
Burnham, Walter Dean. 1967. "Party Systems and the Political Process." Pp. 277- 307 in The American Party Systems, edited by William Nisbet Chambers and Walter Dean Burnham. New York: Oxford University Press.
DiMaggio, Paul. 1979. "Review Essay: On Pierre Bourdieu." American Journal of Sociology 84:1460-74.
Foucault, Michel. 1973. The Order of Things: An Archaeology of the Human Sciences. New York: Vintage Press.
Geertz, Clifford. 1973. The Interpretation of Cultures. New York: Basic.
Giddens, Anthony. 1976. New Rules of Sociological Method: A Positive Critique of Interpretive Sociologies. London: Hutchinson.
Giddens, Anthony. 1979. Central Problems in Social Theory: Action, Structure and Contradiction in Social Analysis. Berkeley and Los Angeles: University of California Press.
Giddens, Anthony. 1981. A Contemporary Critique of Historical Materialism. Volume 1: Power, Property and the State. London: Macmillan.
Giddens, Anthony. 1984. The Constitution of Society: Outline of the Theory of Structuration. Berkeley and Los Angeles: University of California Press.
Goffman, Erving. 1959. The Presentation of Self in Everyday Life. New York: Dou-bleday. . 1967. Interaction Ritual: Essays on Face to Face Behavior. New York: Pantheon.
Held, David, and John B. Thompson, eds. 1989. Social Theory of Modern Societies: Anthony Giddens and His Critics. Cambridge: Cambridge University Press.
Hindess, Barry. 1986. "Actors and Social Relations." Pp. 113-26 in Social Theory in Transition, edited by Mark L. Wordell and Stephen P. Turner. London: Allen & Unwin.
Lamont, Michele, and Annette Lareau. 1988. "Cultural Capital: Allusions, Gaps, and Glissandos in Recent Theoretical Development." Sociological Theory 6:153-68.
Lamont, Michele, and Robert Wuthnow. 1990. "Betwixt and Between: Recent Cultural Sociology in Europe and the United States." Pp. 287-315 in Frontiers of Social Theory: The New Synthesis, edited by George Ritzer. New York: Columbia University Press.
Levi-Strauss, Claude. 1963. Structural Anthropology. New York: Basic.
Levi-Strauss, Claude. 1966. The Savage Mind. Chicago: University of Chicago Press.
Ortner, Sherry B. 1984. "Theory in Anthropology since the Sixties." Comparative Studies in Society and History 26:126-66.
Oxford English Dictionary. 1971. The Compact Edition of the Oxford English Dictionary. Oxford: Oxford University Press.
Le Petit Robert. 1984. Le Petit Robert: Dictionnaire alphabetique et analogique de la langue franSaise. Paris: Le Robert.
Piore, Michael J., and Charles H. Sabel. 1984. The Second Industrial Divide: Possi-bilities for Prosperity. New York: Basic.
Roemer, John E. 1982. "New Directions in the Marxist Theory of Exploitation and Class." Politics and Society 11:253-87.
Rosaldo, Renato. 1980. Ilongot Headhunting, 1883-1974: A Study in Society and History. Stanford, Calif.: Stanford University Press.
Sabel, Charles H. 1988. "Protoindustrya nd the Problemo f Capitalisma s a Concept: Response to Jean H. Quataert." International Labor and Working-Class History 33:30-37.
Sabel, Charles H., and Jonathan Zeitlin. 1985. "Historical Alternatives to Mass Pro-duction: Politics, Markets, and Technology in Nineteenth-Century Industrializa-tion." Past and Present, no. 108, pp. 133-76.
Sahlins, Marshall. 1976. Culture and Practical Reason. Chicago: University of Chicago Press.
Sahlins, Marshall. 1981. Historical Metaphors and Mythical Realities. Ann Arbor: University of Michigan Press.
Sahlins, Marshall. 1985. Islands of History. Chicago: University of Chicago Press.
Sahlins, Marshall. 1989. "The Cosmology of Capitalism: The Trans-Pacific Sector of the World System." Proceedings of the British Academy for 1988.
Sahlins, Marshall . 1991. "The Return of the Event, Again; With Reflections on the Beginnings of the Great Fijian War of 1843 to 1855 between the Kingdoms of Bau and Rewa." Pp. 37-100 in Clio in Ocednia: Toward a Historical Anthropology, edited by A. Biersack. Washington, D.C.: Smithsonian
Samuel, Raphael. 1977. "The Workshop of the World: Steam Power and Hand Technology in Mid-Victorian Britain." History Workshop 3:6-72.
Sewell, William H., Jr. 1988. "Uneven Development, the Autonomy of Politics, and the Dockworkers of Nineteenth-Century Marseille." American Historical Review 93:604-37. Somers, Margaret Ramsay. 1986. "The People and the Law: The Place of the Public Sphere in the Formation of English Popular Identity." Ph.D. dissertation. Harvard University, Department of Sociology.
Therborn, Goran. 1980. The Ideology of Power and the Power of Ideology. London: Verso. Thompson,J ohn B. 1989. "The Theory of Structuration."P p. 56-76 in Social Theory of Modern Societies: Anthony Giddens and His Critics, edited by D. Held and J. B. Thompson. Cambridge: Cambridge University Press.
Wacquant, Loic. 1989. "Towards a Reflexive Sociology: A Workshop with Pierre Bourdieu." Sociological Theory 7:26-63.
Wallerstein, Immanuel. 1974. The Modern World System. Volume 1: Capitalist Agri-culture and the Origins of the European World. New York: Academic.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét