Lai lịch
họ Hà (1*)
Vài nét về vị thủy tổ
Về vị thủy tổ họ Hà, thời Chiến Quốc nhà
Tần thôn tính nước Hàn [1], vì vụ án Bác Lãng Sa
[2], Tần Thủy Hoàng muốn nhổ cỏ tận gốc (斬草除根 trảm thảo trừ căn), có ý định giết sạch dòng họ Hàn lúc bấy giờ. Vị thủy tổ
chạy đến sông Lư Giang, lấy nghề chèo đò mưu sinh, một ngày nọ có viên nha lại
nhà Tần qua đò. Ngồi trên thuyền, lại viên vui miệng hỏi về danh tính ông. Ông
vô tình lấy ngón tay chỏ chỉ xuống sông rồi nói “Hà”, vì tính người ta trôi đi
như nước, nhập thêm mãi vào thì có thể nên người. Sau đó nơi sông Lư Giang ấy
đã nhanh chóng tụ hội thành gia đình họ Hà danh tiếng, để rồi hai chữ Lư Giang
đã trở thành biểu trưng của họ Hà. Ngoài Lư Giang ra, cho đến giờ, họ Hà còn có
hai nơi danh tiếng khác, đó là Đông Hải và Trần Quận. Đông Hải chính là huyện
Đàm Thành ở tỉnh Sơn Đông. Còn Trần Quận là quận Dĩnh Xuyên nay là huyện Hoài
Dương, tỉnh Hà Nam. Tại cửa chính các gia đình họ Hà thường treo hai câu đối: “東海家聲遠,廬江世澤長 Đông Hải gia thanh viễn, Lư Giang thế trạch
trường” (Danh tiếng gia tộc Đông Hải vang xa, Ân huệ truyền đời Lư Giang còn
mãi). Hai câu đối đó cho thấy rõ lai lịch của họ Hà. Về số người của các gia đình họ Hà toàn
Trung Quốc, thì họ Hà Lư Giang là đông nhất.
Một nhánh từ họ Chu đổi thành họ Hà. Sách Hậu Hán thư, quyển thượng còn ghi: Chu Miêu thực chất là
họ Chu, mạo xưng họ Hà. Vì sao Chu Miêu lại đổi thành họ Hà? Thật ra là vì
đương thời Hán Linh đế có một vị Hà Hoàng hậu rất được sủng ái, bà lại có một
người anh trai tên là Hà Tiến [3] được phong đại tướng quân, đương thời địa vị
đại tướng quân rất cao, tương đương với địa vị tam công. Chu Miêu là huynh đệ
cùng mẹ khác cha với Hà Hoàng hậu, vì vậy đã đổi họ Chu thành họ Hà, cuối cùng
mang tên Hà Miêu [4]. Hà Miêu cũng làm đến Xa kỵ tướng quân, chỉ sau địa vị đại
tướng quân. Vì lý do đó mà người ta vẫn thường nói họ Hà, họ Hàn và một bộ phận
họ Chu là anh em cùng họ.
Hơn nữa, một chi của họ Hà là Hán tộc có nguồn gốc ngoại
tộc. Ngũ đại sử, quyển thượng ghi Thổ Cốc Hồn [5] cũng có họ Hà. Ở đây, việc
phát âm “thổ cốc hồn”, đương nhiên thành “đột dục hồn”
nguyên lai là do mọi người thuộc tộc người Tiên Ti ở Liêu Đông đều gọi như vậy. Sau thời Ngụy Tấn, có tù trưởng người Tiên Ti là Đồ Hà [6] Thiệp Quy (徒何涉歸) ông ta có hai người con, con lớn là Đột Dục
Hồn (突浴魂), con nhỏ là Nhược Dục Phong (若浴瘋). Hai anh em đều được phân chia thống suất phần bộ lạc
riêng, về sau hai anh em bất hòa, Đột
Dục Hồn dẫn dắt thành công bộ lạc của ông ta, thiên di về phía
tây, cho đến thế hệ con cháu có tên gọi Diệp Diên đã sử dụng tên gọi Đột Cốc Hồn
làm tên nước.
Bản đồ đương thời Đột Dục
Hồn, hiện nay thuộc một dải
Cam Túc, lịch sử sớm nhất của nhân vật họ Hà (何姓 Hà tính) e rằng rốt cuộc chính là Hà hầu sau thời Đường
Nghiêu vậy. Căn cứ của thuyết này là Hà hầu đương thời ẩn cư tại núi Thương Ngô
[7] tu luyện phép trường sinh bất lão, toàn gia có tới 200 người, đều lấy nghề
làm ruộng để duy trì sinh hoạt. Khi Đại Thuấn tuần du phương nam đã từng nghỉ lại
tại nhà Hà hầu, đến thời Hạ Vũ, cả nhà Hà hầu đều thành tiên. Hiện nay tại Nghi
Sơn có miếu thờ Hà hầu bên cạnh miếu thờ Đại Thuấn vậy.
Nghi Sơn là núi Thương Ngô, cũng chính là nơi an táng
Đại Thuấn, địa điểm này hiện ở huyện Trữ Viễn, tỉnh Hồ Nam. Đối chiếu với những
tích xưa, thì thấy chính là Hà hầu đã tham dự vào thời đại Đế Nghiêu và sống tới
thời Hạ Vũ, tính từ đầu đến cuối, sống đến 510 năm, đáng tiếc là sử tích lại
ghi không đủ chi tiết, không rõ cái đạo mà toàn gia Hà hầu đã thành tiên, có
còn lưu lại bất cứ cái gì trên thế gian này không, nếu như quả thực có câu chuyện
về những người nhà của ông, thì đã có một chi họ Hà, tồn tại đến hơn 2000 năm rồi.
Vì họ Hà có vài phương diện bất đồng về nguồn gốc, con cháu đời sau sinh sôi nhanh
chóng, đến mức có thể coi là một gia tộc đông đúc. Tại Bách gia tính, họ Hà là
một họ lớn, đứng ở vị trí thứ 21 về dân số, tại Đài Loan, dân số họ Hà đông thứ
27, còn vào thời nhà Thanh, Hà là họ lớn thứ 5 trong toàn quốc, chỉ sau Trần (陳), Lâm (林), Trương (張), Hoàng (黃).
Khởi nguồn của tông tộc họ Hà ở Lư Giang
Theo ghi chép về tư liệu và truyền thuyết trên thẻ tre
cổ đại, nguồn gốc Hà vốn là Hàn, tức là tông tộc họ Hà do họ Hàn chuyển hóa mà
thành. Ngay từ khi bắt đầu thời Tây Chu, Hàn (韓 tên nước thời Chiến Quốc, bị Tần thôn tính, thuộc
vùng Sơn Tây ngày nay) theo sau Hàn (邗 tên nước thời Xuân Thu thuộc
vùng Giang Nam ngày nay), Tấn, Hàn (韓) lại là con của Chu Vũ vương, là chú của Chu Thành vương, vì có công được
phong ở đất Hàn, thành nước Hàn cổ. Sau đó Bình Vương thiên di về phía đông,
Hàn thôn tính Tấn. Bảy đời truyền đến em trai Tấn Văn hầu là Thành Sư, được
phong ở Khúc Ốc, gọi là Hoàn Thúc, đổi hệ họ Cơ (họ Cơ là triều Chu vương và
sinh xuất từ chư hầu công tính nhà Chu). Con trai thứ của Hoàn Thúc bảo vệ nhà
Tấn có công, được thụ phong ở Hàn Nguyên, gọi là Hàn Vũ tử. Cháu ba đời của Vũ
Tử là Hàn Quyết là Tấn khanh, lúc mới thụ phong đã lấy Hàn làm họ. Truyền đến
Tuyên Huệ vương thì mới xưng vương, cùng Tề, Sở, Yên, Triệu, Ngụy, Tần gọi là bảy nước, người
đời gọi là 7 cường quốc thời Chiến Quốc. Truyền đến Hàn vương An, tại vị được 7
năm thì bị Tần diệt, vì vậy mà nước Hàn đã mất. Hạng Lương theo kế của Trương
Lương, lập con của An là Hoành Dương quân Thành làm Hàn vương, không lâu, bị Hạng
Vũ nước Sở tiêu diệt. Đúng lúc đó em của Thành là Doãn gặp tai vạ, phải chạy nạn
về quê cùng cha mẹ, đổi họ là Thập ma* (vì trong chữ Hán 什麼 ‘Thập ma’ là từ nghi vấn ‘cái gì, nào’; và 何 ‘hà’ cũng là ‘cái gì, sao, đâu’). Hậu duệ của họ Hà đều bằng lòng nhận
Doãn công (允公) là tị tổ của bản tộc.
Hơn nữa căn cứ vào các ghi chép trên thẻ tre thì sau khi Tần diệt Hàn vương
An, quốc tộc Hàn trốn chạy, ẩn náu tám phương, để tránh sự truy bức của nhà Tần.
Có người con của Hàn Ly vương [8] là Hàn Giam (韓瑊) [9] chạy trốn đến Lư
Giang, và cư ngụ tại đây. Sau khi chết, cùng Khương Thái thái táng tại Đông
Hương, gần cánh đồng Hoài Cương, Lư Giang, hậu thế gọi là Thập ma phần cương mộ.
Ngôi mộ đó thời Tống vẫn còn, chính danh thần triều Tống là Lý Quang [10] (gọi
là Trang Giản) từng thấy ngôi mộ đó và đã đến điếu niệm. Vì vậy hậu thế xác định
Giam công (瑊公) là viễn tổ của họ Hà quận Lư Giang ngụ cư ở
Lư Giang là vị thủy thiên tổ (Vị tổ di cư đầu tiên).
Lai lịch họ Hà
Trong các tư liệu thẻ tre có nhiều loại giải thích: (i) Hàn Giam
tị nạn Lư Giang, sống ở nơi đầu mối
giao thông trọng yếu, làm nghề chèo thuyền, từng bị mắc nạn nên phải tự cấp,
sau Tần Thủy Hoàng bị phục kích ở Bác Lãng Sa, nghi là quý tộc lục quốc [(Hàn (韓), Triệu (趙), Ngụy (魏), Tề (齊), Sở (楚), Yên (燕) hãm hại, nên đã lệnh
bí mật cho người dò la trinh thám, hòng bắt được kẻ có ý đồ ám sát. Lúc ấy mật
thám nhà Tần Thân Đồ là người (平易近們 bình dịch cận môn - dễ cảm) dễ gần, được Giam chở
thuyền qua sông, lên thuyền hỏi họ của Giam, không biết đó là mật thám, vừa
đúng lúc trời quá lạnh, ông chỉ tay xuống nước cố ý đùa: “Đó là họ của ta vậy”.
Ông muốn lấy nước lạnh để ví với họ Hàn. Mật thám liền hỏi: “Nếu vậy thì là họ
Hà chăng?”, ông đáp: “Thân Đồ làm người lẽ nào lại không thuận theo dòng nước?”
rồi mật thám bèn ghi họ Hà vào sổ mà đi. Sau đó Giam nghe biết lệnh của nhà Tần,
cả kinh mà ngầm than thở: “Nhà ta thoát khỏi nạn bị chém giết, nhờ một chữ Hà vậy,
lẽ nào lại chẳng phải là thiên khải về sau?” bèn lấy làm họ. (ii) Thời nước Hàn
bị diệt, bà Hàn vương An đang mang thai, chạy trốn về nhà mẹ, sinh ra con trai
trong lòng bàn tay có chữ Hà, bèn lấy Hà làm họ. (iii) Họ Hiên Viên [11] về sau
có người tên Điền Văn Cao, làm điền chính quan, có công được phong Lư Giang,
ban họ Hà. (iv) Thời vua Nghiêu có vị
Hà hầu, mộ thuật trường sinh, ẩn cư ở núi Thương Ngô, Đại Thuấn tuần thú phương
nam, nghỉ tại nhà Hà hầu, gọi là họ Hà. (v) Hàn Dũ
[12] cùng Hà Sinh Viên
trong thư sách, là để chỉ “Hàn với Hà cùng tính vì âm đọc nghe gần
nhau vậy”, nó chỉ hai âm chữ (thanh mẫu, vận mẫu, và thanh điệu) gần nhau, vì vậy
Hàn chuyển hóa thành “Thập ma”. (vi) Về sau Vũ
được phong ở đất Kỷ, và rồi Kỷ cũng trở thành “Thập ma”.
Loại giải thích này có cái gì đó mang sắc thái thần
thoại, đa phần có tính chất truyền thuyết, có vẻ là phỏng đoán của người đời
sau, mong muốn khoa học phát triển để làm sáng tỏ, không chỉ có biết tận tín mà
thôi. Như đã nói Hàn vương An Thái thái sinh con có chữ “Hà” tại giữa lòng bàn
tay, giống như chịu ảnh hưởng của sách Tả truyện lâu đời; Hà hầu, ban họ Điền
Chính, thuyết về nước Kỷ, vì vậy mà trở nên không đáng tin. So sánh năng lực có
thể nhờ cậy để chuyển hóa Hàn thành Thập ma, không chỉ là hai vấn đề phát âm và
tính gần cận, mà đồng thời sau đó còn là Hàn bị diệt vong, người thuộc thị tộc
Hàn ở cấp bậc chính trị cao bị Tần làm hại, nên việc đổi họ là hành vi tránh bị
làm hại. Cho đến việc đổi họ “Hà”, chúng ta thấy rõ không phải là trùng hợp tình
cờ với “Hà”, mà là trùng hợp với sự sùng kính liên quan đến tô tem (圖騰 đồ đằng).
Trên cơ sở quần thể Hán tộc cổ đại xác định Thân Đồ, lấy tô tem là Thân Đồ, từng là một sự mở rộng rõ ràng của các biểu tượng, như các họ Ngưu (牛), Mã (馬), Long (龍), Hùng (熊), Lộc (鹿), Dương (楊), Bách (柏), Liễu (柳), Thạch (石), Vân (雲), Lôi (雷), v.v., đều có khả năng liên quan đến những người dễ cảm trước (平易近們 tiên bình dịch cận) đã từng rất sùng bái những biểu tượng người cũng như các biểu tượng động, thực, khoáng vật này, lấy những biểu tượng đó giả làm tô tem, vì vậy mà rốt cuộc là Thân Đồ vậy.
Trên cơ sở quần thể Hán tộc cổ đại xác định Thân Đồ, lấy tô tem là Thân Đồ, từng là một sự mở rộng rõ ràng của các biểu tượng, như các họ Ngưu (牛), Mã (馬), Long (龍), Hùng (熊), Lộc (鹿), Dương (楊), Bách (柏), Liễu (柳), Thạch (石), Vân (雲), Lôi (雷), v.v., đều có khả năng liên quan đến những người dễ cảm trước (平易近們 tiên bình dịch cận) đã từng rất sùng bái những biểu tượng người cũng như các biểu tượng động, thực, khoáng vật này, lấy những biểu tượng đó giả làm tô tem, vì vậy mà rốt cuộc là Thân Đồ vậy.
Có thể nhận thấy là chính Thập ma từng là một trong số
“tiên bình dịch cận” sùng kính đối tượng, là vì chỗ của họ Hà có sông nước (水), mà nước là một trong “ngũ hành”, và nhiều người tin
rằng quả bầu và sắn dây có cảm tình đặc biệt gần gũi, vì vậy mà người xưa cũng
đã lấy “Hà” làm họ (như Kính Châu, Cam Túc có họ Hà), hệt như nước (水), sông (江), hồ (湖), biển (海) đều cùng một dạng trở thành nhiều ngạo tín đồ đồng dạng
với Thân Đồ. Tông tộc họ Hà ngay từ rất sớm đã có khả năng sử dụng chữ “Hà” (河), sau này có khả năng cải đổi loại hình. Thế thì xá tử
(啥子 tương đương với 什麼 thập ma là phương ngữ vùng Tứ Xuyên vẫn dùng*) có thể đổi thành Thập ma
chăng? Hay là tổ tông lâu đời nhận là Thân Đồ thuận thủy lại chẳng tốt lành
sao!
__________________________________
Người dịch: Hà Hữu Nga
Nguồn: 何氏來歷, 五支來源,何氏淵源, Hà thị lai lịch - Ngũ chi lai
nguyên, Hà thị uyên nguyên. http://www.heshi.org/wzly-1.htm
Chú thích của người dịch:
(1*) Chưa tìm được tên tác giả bài viết, mong được chỉ bảo.
[1] Hàn quốc (韓國 403 – 230 TCN)
là một trong các chư hầu của nhà Chu, và là một “Chiến quốc thất hùng”, cùng nước Ngụy, nước Triệu hợp xưng là Tam
Tấn (三晉). Theo Sử ký, gia tộc họ Hàn có nguồn gốc từ
quý tộc nhà Chu,
do đó cùng mang họ Cơ (姬姓 Cơ tính),
thuộc dòng dõi của vị quân chủ đầu tiên của nước Tấn
Đường Thúc Ngu. Cuối thế kỷ thứ 8 đầu thế kỷ thứ 7
TCN, cuộc tranh chấp ngôi vị quân chủ nước Tấn giữa dòng trưởng và dòng thứ nổ
ra. Dòng thứ với thủy tổ Khúc Ốc Hoàn Thúc
Cơ Thành Sư dần có ưu thế. Trong cuộc tranh danh ngôi vị này, con thứ của Cơ
Thành Sư là Cơ Vạn đóng vai trò đắc lực. Vì vậy, khi Tấn Vũ Công lên ngôi, đã
phong cho chú mình đất Hàn Thành
làm thực ấp.
Lãnh thổ của nước Hàn trải rộng trong khu vực ngày nay là miền nam tỉnh Sơn Tây, miền bắc tỉnh Hà Nam. Phía tây giáp với Tần, phía bắc giáp Ngụy và Triệu, phía đông
giáp Tề, phía nam
giáp Sở. Từ đó Cơ Vạn
được gọi là Hàn Vạn, trở thành thủy tổ của các đời quân chủ nước Hàn sau này,
được con cháu dâng tôn hiệu là Hàn Vũ tử.
Gia tộc Hàn với căn cứ Hàn Thành, lại xuất thân quý tộc quân chủ, nhiều đời làm
quan khanh, nhanh chóng phát triển thành một thế lực chính trị của nước Tấn, dần
trở thành một trong Lục khanh
của nước Tấn. Sau những cuộc
tranh giành đẫm máu, Lục khanh chỉ còn lại 3 nhà có thế lực lớn nhất. Năm 403 TCN, Hàn Kiền,
Ngụy Tư và Triệu Tịch
đã cùng nhau chia sẻ nước Tấn một thời
hùng mạnh ra thành ba nước, gọi là Hàn, Triệu và
Ngụy, được một số sử gia coi là khởi đầu thời kỳ Chiến Quốc cũng như Hàn trở thành một thể chế
chính trị độc lập. Chu Uy Liệt vương
buộc phải công nhận các nước chư hầu mới này và phong cho họ tước hầu. Đỉnh cao
của nước Hàn là trong thời kỳ trị vì của Hàn Ly hầu
(hay còn gọi là Hàn Chiêu hầu) Hàn Vũ. Hàn Ly hầu dùng Thân Bất Hại (申不害, ?-337
TCN) làm tướng quốc và áp dụng các triết lý Pháp gia của Thân Bất Hại. Các
chính sách của Thân Bất Hại đã giúp củng cố và tăng cường sức mạnh cho nước
Hàn, làm cho hầu quốc này trở thành một xã hội tiểu khang. Tới năm 323 TCN Hàn Uy hầu (Hàn
Khang) đã tự xưng vương, tức Hàn Tuyên vương (hay Hàn Tuyên Huệ vương). Hàn là
nước đầu tiên trong số 6 quốc gia lớn bị Tần tiêu diệt. Cuộc xâm lăng của Tần bắt đầu vào quận Thượng Đảng (上党郡)
của Hàn, với trận Trường Bình
năm 260 TCN. Người
nổi tiếng nhất của Hàn có lẽ là triết gia Hàn Phi
của Pháp gia. Những người nổi tiếng khác còn có Thân Bất Hại, Hiệp Luy, Bộc Diên, Trịnh Quốc. [(司馬遷《史記•秦始皇本紀》:二十九年,始皇東遊, Tư Mã Tiên “Sử kí, Tần Thủy Hoàng bản kỉ”;《史記卷69·蘇秦列傳·第九》“Sử ký, quyển 69, Tô Tần Liệt truyện, Đệ cửu”; 《資治通鑒》卷1至6 “Tư trị thông
giám”, Quyển 1 chí 6.)]
[2] Bác Lãng Sa (博浪沙) gắn liền với Trương Lương (張良 266 – 254 TCN), tự Tử Phòng (子房), là danh thần khai quốc nổi tiếng của nhà Hán, cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà được người đời gọi là Hán sơ Tam kiệt (漢初三傑), giúp Lưu Bang diệt Tần, thắng Hạng Vũ, sáng lập ra nhà Hán lừng lẫy lịch sử Trung Quốc. Ông được coi là một trong 10 đại quân sư kiệt xuất nhất lịch sử Trung Quốc, đứng thứ 3 sau Tôn Vũ, Tôn Tẫn và đứng trên các bậc quân sư kiệt xuất khác như Gia Cát Lượng, Lưu Bá Ôn, và được hậu thế gọi là Mưu Thánh (謀聖). Năm 230 TCN, nước Hàn bị Tần Thủy Hoàng diệt, em chết, nhưng Trương Lương không lo chôn cất mà tập hợp 300 tôi tớ trong nhà tìm thích khách giết vua Tần để báo thù cho nước Hàn. Ông tìm được một lực sĩ, làm một cái chùy sắt nặng 120 cân, năm 218 TCN, nhân Thủy Hoàng du hành miền đông, nhóm của Lương rình đánh vua Tần ở bãi cát Bác Lãng, nhưng lại đánh nhầm phải xe tùy tùng nên giết hụt vua Tần. Tần Thủy Hoàng nổi giận truy lùng khắp thiên hạ, Lương đổi tên họ, trốn ở Hạ Bì. Nhờ đức tính khiêm tốn, nhún nhường, ông được Hoàng Thạch Công truyền cho cuốn "Thái Công binh pháp" và dặn Lương rằng: “Đọc sách này sẽ làm thầy bậc vương giả; mười năm sau ứng nghiệm; mười ba năm sau đến gặp ta, đó là tảng đá màu vàng dưới chân núi Cốc Thành ở phía bắc sông Tế, đó chính là ta vậy”. [(司馬遷《史記•留侯世家》Tư Mã Tiên “Sử kí, Lưu hầu thế gia”; 司馬遷《史記•秦始皇本紀》Tư Mã Tiên “Sử kí, Tần Thủy Hoàng bản kỉ”)].
[3] Hà
Tiến (何進) tự
là Toại Cao, xuất thân bình dân, làm nghề bán thịt ở Nam Dương,
nơi khởi phát của Quang Vũ đế nhà Đông Hán. Thời Hán Linh đế, em gái cùng
cha khác mẹ của ông là Hà thị được tuyển vào cung và được sủng ái. Hà thị được lập làm hoàng hậu năm 180, Hà Tiến là ngoại thích được vào
cung làm quan. Năm 184, Trương Giác gây loạn Khăn vàng,
Tiến được Hán Linh đế
phong chức Đại tướng quân lãnh trách nhiệm dẹp loạn. Nhờ sự tố giác của một đệ
tử Khăn Vàng là Đường Chu, ý định khởi sự vào tháng 3 của Trương Giác bị lộ. Hà
Tiến bắt Mã Nguyên Nghĩa, người
phụ trách các thủ hạ của Trương Giác tại Lạc Dương
mang xé xác. Cuối năm đó anh em Trương Giác bị dẹp, Hà Tiến được phong làm Thận
hầu (慎侯). Người em trai cùng mẹ là Hà Miêu cũng được vào triều làm
quan. Đầu năm 189, Hán Linh Đế qua đời, con
Hà hoàng hậu là thái tử Lưu Biện lên nối ngôi, tức là Hán Thiếu đế, Hà hậu trở
thành Hà thái hậu lâm triều xưng chế, cùng Hà Tiến điều hành triều chính. Trong
triều còn lực lượng muốn đối phó với Hà Tiến là Phiêu kỵ tướng quân Đổng Trọng.
Đổng Trọng cũng vốn là ngoại thích đời trước, cô
Đổng Trọng là Đổng Thái hậu
là mẹ chồng Hà thái hậu, hai người mâu thuẫn nhau nên Đổng Trọng cũng bất hòa với
Hà Tiến. Vì vậy anh em Hà Tiến ép Đổng thái
hậu trở về đất phong cũ của chồng. Sau khi Đổng thái hậu lên đường, Hà Tiến lập
tức phát binh vây nhà Đổng Trọng, bắt sống và cách chức, Đổng Trọng tự sát, rồi Đổng thái hậu cũng qua đời. Trong
triều chỉ còn lực lượng hoạn quan đang chống lại Hà Tiến. Viên Thiệu, thủ hạ của Hà
Tiến đề nghị bãi chức các hoạn quan. Hà Tiến phong Viên Thiệu làm Tư Lệ hiệu
úy. Hà Tiến theo
ý kiến của Viên Thiệu,
vào cung Trường Lạc gặp Hà thái hậu xin ý chỉ giết hết các hoạn quan. Trong các
hoạn quan có người nghe được chuyện bèn báo với Trương Nhượng. Trương Nhượng
cùng Đoàn Khuê vội huy động vài mươi quân lính cầm binh khí phục sẵn, đợi lúc
Hà Tiến ra cửa cung bèn đổ ra bắt sống, mang tới dưới lầu Thượng thư rồi kể tội
ông là người vong ân bội nghĩa và giết chết ông trước điện Gia Đức [(《後漢書·五行志一·屋自壞》“Hậu hán thư, Ngũ hành chí nhất, Ốc
tự hoại”;《後漢書·靈思皇后》“Hậu Hán thư, Linh tư Hoàng hậu”;《三國志·董卓傳》引《英雄記》“Tam quốc chí, Đổng trác truyện” dẫn “Anh hùng kí”)].
[4] Hà Miêu (何苗 ?-189) tự thúc đạt, vốn họ Chu, tên thật là Chu Miêu, là em khác cha, khác mẹ của Hà Tiến, là anh cùng mẹ khác cha của Hoàng
hậu Hà thị. Bố Miêu tên Chu Hưng là chồng trước của Vũ Dương Quân, mẹ Hà Hoàng hậu,
sinh hạ được Chu Miêu. Hưng lấy Hà Chân lúc Hà
Chân đã có con trai Hà Tiến, Chu Miêu theo mẹ nhập vào gia đình họ Hà và đổi họ
là Hà Miêu. Năm Trung
Bình thứ 4 (187), Hà Miêu làm Hà Nam doãn, nhân chinh phạt giặc
Huỳnh Dương có công nên được bổ làm Xa
kị tướng quân, và phong là Tế Dương huyện hầu. Sau khi Hán Linh đế chết, Hà Tiến muốn trừ
hoạn quan, Hà Miêu được hoạn
quan hối lộ, tố với Hà Thái hậu về ý đồ của Hà Tiến, cản trở Hà
Tiến diệt hoạn quan. Ngày Mậu Thìn (25) tháng 8 năm Kỉ
Tị (189),
Hà Tiến vào cung Trường Lạc gặp Hà thái hậu,
Trương Nhượng cùng Đoàn Khuê vội huy động vài mươi quân lính cầm binh khí phục
sẵn, đợi lúc Hà Tiến ra cửa cung bèn đổ ra bắt sống, và giết chết. Thủ hạ của Hà Tiến là Viên Thiệu mang quân đánh vào hoàng cung giết
các hoạn quan báo thù cho Hà Tiến, Hà
Miêu cũng mang quân vào cung phối hợp với Viên Thiệu giết hoạn quan, nhưng tướng quân Ngô Khuông kể tội
Hà Miêu từng thông đồng với hoạn quan, đến nỗi
Hà Tiến bị giết,
nên cùng em Đổng Trác là Đổng Mân giết chết Hà Miêu. [(《後漢書·五行志二·草妖》“Hậu Hán thư, Ngũ hành chí nhị, Thảo yêu”;《三國志·董卓傳》引《英雄記》“Tam quốc chí, Đổng trác truyện” dẫn “Anh hùng kí”; 《三國志·牽招傳》“Tam quốc chí, Khiên chiêu truyện”)].
[5] Thổ Cốc Hồn (吐谷渾 người Tuyuhun) Thổ Cốc Hồn
hay Thổ Dục Hồn cũng gọi là Hà Nam Quốc (河南國)
là một vương quốc hùng mạnh mà người Tiên Ti
lập nên tại Kỳ Liên Sơn
và thung lũng thượng du Hoàng Hà, tồn tại từ
năm 285 đến năm 670. Nước Thổ Dục Hồn được thành lập vào năm 284 sau khi chinh phục được sắc dân mà họ gọi là người Khương,
bao gồm trên 100 bộ lạc phối hợp lỏng lẻo. Sau khi Thổ Dục Hồn mất tại Lâm Hạ,
Cam Túc vào năm 317, những người con trai của ông đã mở rộng lãnh thổ với việc
đánh bại các nước Tây Tần (385-430) và Hạ
(407-431). Các nhóm Tiên Ti này là nòng cốt của Thổ Dục Hồn và dân số lên đến
3,3 triệu người lúc đỉnh cao. Họ thực hiện các cuộc viễn chinh về phía tây, từng
có lúc xa đến Hòa Điền ở Tân Cương, lập nên một
đế quốc rộng lớn bao phủ Thanh Hải, Cam Túc, Ninh Hạ, phía bắc Tứ Xuyên, phía đông Thiểm Tây,
phía nam Tân Cương, và nhiều phần
của Tây Tạng, kéo dài
1.500 km từ đông sang tây và 1.000 km từ bắc xuống nam. Họ là thế lực
lần đầu tiên trong lịch sử đã thống nhất vùng tây bắc Trung Quốc, phát triển
tuyến phía nam của Con đường tơ lụa,
cho đến khi bị Thổ Phồn tiêu diệt.
Người Thổ Dục Hồn là những chuyên gia trong việc chăn nuôi ngựa, họ cũng có các
hoạt động nông nghiệp. Là một vương quốc giữa các đế quốc Trung Hoa ở phía đông (Bắc Ngụy và Nam triều)
và các bộ lạc thảo nguyên khác như Nhu Nhiên và Sắc Lặc,
người Thổ Dục Hồn đóng vai trò như những sứ giả và thương gia, trong khi đó
cũng có nhiều nhà truyền giáo của Phật giáo và khách lữ hành đi qua đất nước của
họ. Khi nhà sư
hành hương người Hán là Tống Vân
(宋雲), viếng thăm khu vực vào năm 518, ông đã lưu ý rằng người dân ở
đây có một ngôn ngữ viết. Người Thổ
được cho là hậu duệ của người Thổ Dục Hồn.
[6] Đồ Hà (徒何), là từ vị Hán ngữ, được giải thích là họ có tên kép (phức tính). Phức tính: Bắc Chu có Đồ Hà Bật, xem “Cựu Đường thư, Lý Bí truyện”. “Chu thư, Lý Bật truyện” tác “Đồ Hà”. [(《舊唐書•李泌傳》。《周書•李弼傳》作“徒河”)].
[7] Thương
Ngô sơn chính là Hoa Quả sơn tại Liên Vân cảng sơn mạch Vân Thai Sơn, Giang Tô. Vân Thai Sơn tên cổ là Uất Châu Sơn, thời Đường Tống gọi là Thương Ngô Sơn. Năm Thiên Khải thời Minh đổi thành Vân Thai Sơn. Sách Tây Du Ký của Ngô
Thừa Ân gọi Vân
Thai Sơn thuộc Đông Hải Ngạo Lai quốc. Lý Bạch đời Đường có thơ: "Minh nguyệt bất quy trầm bích hải, Bạch vân sầu sắc
mãn Thương Ngô.” (明月不歸沉碧海,白雲愁色滿蒼梧 Trăng sáng không theo ông về biển xanh, Mây trắng buồn vương khắp núi
Thương Ngô.). Tô Thức đời nhà Tống: “Uất uất Thương Ngô hải thượng
sơn, Bồng lai phương
trượng hữu vô gian” (鬱鬱蒼梧海上山,蓬萊方丈有無間) Sum suê núi Thương Ngô trên biển, Đây chốn
bồng lai không không có có) mô tả
hoàn toàn đúng Vân Thai Sơn. Đó chính là một "Hải nội tứ đại danh linh”. Năm Gia Tĩnh nhà Minh
đạo giáo hưng thịnh, đạo sĩ vân tập nơi này lên đến 2 vạn
vị, núi còn được coi là “Thất thập nhất phúc địa.” Tuy nhiên có một Thương Ngô khác, còn gọi là Cửu Nghi Sơn ở phía nam
thành phố Vĩnh Châu huyện Ninh Viễn, tỉnh Hồ Nam, thuộc nam Lĩnh Sơn mạch gọi là Manh Chử lĩnh, trải dài hơn 2000 dặm, nam tiếp La Phù, bắc nối liền Hành Nhạc. Thương Ngô Sơn chính là nơi Đại Thuấn nam tuần.
[8] Hàn Ly vương (韓厘王 ? – 273 TCN), Cơ tính, họ Hàn, tên là Cữu, con trai Hàn Tương vương, thời Chiến Quốc là Hàn Quốc quốc quân (295 - 273
TCN). Hàn Ly vương năm thứ 12 (284 TCN), Hàn Ly vương cùng Tần Chiêu vương gặp nhau tại Tân thành của Tây Chu, giúp Tần đánh Tề. Tề bại trận, Tề Mẫn vương chạy trốn. Hàn Ly vương năm thức 15 (280 TCN), Hàn Phi Tử sinh ra trong gia đình quý tộc Hàn. Hàn Ly vương năm thức 20 (275 TCN), Hàn bị Tần diệt, chém tới hơn 4 vạn thủ cấp.
[9] Hàn Giam (韓瑊), căn cứ vào “Trinh dương thủy
mộc kí” (“湞陽水木記”) thì Hàn Giam, sau đổi tên Hà Giam, là quý tộc nước Hàn
hậu kỳ Hàn vương An, vốn là Công tộc đại phu, từng
cùng Hàn Phi nắm chính sự đất nước. Nhân
vì thái độ của nước Tần, nên thoái ẩn tại
Hàn Nguyên. Đổi họ là do Hàn vương An bị kiếp nạn, nước mất nhà tan, Giam cùng vợ lưu lạc đến sống tại Lư Giang, làm nghề chở đò, vì bị Tần truy tìm nên đổi thành họ
Hà. “Trinh dương thủy mộc kí” còn ghi: “Sơ tổ Giam công cùng Khương
phu nhân mất, táng
tại Đông Hương, Lư Giang nhìn ra cánh đồng Hoài
Cương, các thế hệ sau bồi phụ, và gọi là Hà phần cương mộ. Điều đặc biệt là có những gia đình họ
Hà (kể cả ở VN) nhiều đời vẫn chọn những chữ chỉ các loại ngọc, tất nhiên phải có bộ ngọc 玉như ở chữ 瑊
Giam (瑊 vốn cũng
là một loại ngọc) đặt tên cho con cháu như là một loại tộc hiệu ngầm. Có một GS.
nổi tiếng, từ đời cụ kỵ cách đây vài trăm năm đến đời cháu của ông vẫn được đặt
tên theo cách này. Chẳng biết họ có liên quan gì đến cụ 瑊
hay không!.
[10] Lý Quang (李光 1078 – 1159) tự Thái Phát, hiệu Chuyển vật Lão nhân, người Thượng Ngu, Việt
Châu, nay là Ngu Đông, Chiết Giang), cùng Lý Cương, Triệu
Đỉnh, Hồ Thuyên được gọi là “Nam Tống Tứ danh thần”. Năm Sùng Ninh thứ 5 đời Huy Tông (1106) tiến sĩ, tri huyện Khai
Hóa. Năm Kiến Viêm nguyên niên đời Cao Tông (1127), được đề bạt làm bí thư thiếu giám. Năm Thiệu Hưng nguyên
niên (1131) phong tri châu Vụ Châu, đổi nhậm Lại
bộ thị lang. Năm thứ 8 (1138) ban Tả
trung đại phu, được trao chức Tham
tri chánh sự. Năm thứ 9 (1139) bất hòa với Tần Cối, đi làm tri phủ Thiệu Hưng, rồi đổi đề cử Đỗng tiêu cung. Năm thứ 11 (1141), thăng Ninh Viễn quân tiết
độ phó sứ. Năm thứ 14 (1144) đổi đi Quỳnh Châu. Năm thứ 20 (1150) đổi đi Xương Hóa quân. Năm thứ 25 (1155) Tần Cối chết, chuyển về Sâm Châu. Năm thứ 28 (1158) phục chức Tả triều phụng đại phu. Năm thứ 29 (1159), chết ở Giang Châu, 82 tuổi, ban tên thụy là Trang Giản.
Năm thứ 31 (1161) truy phục Tả trung
đại phu. 《宋史》卷三六三有傳 “Tống sử”,
Quyển tam lục tam có truyện
về ông. Thời nhà Thanh sơ khai《永樂大典》“Vĩnh Lạc đại điển” tập hợp thành 《莊簡集》“Trang Giản tập” 18 quyển.
[11] Hiên Viên thị chính là danh tự của Hoàng đế, thời niên thiếu tư duy mẫn tiệp, tuổi thanh niên thì đôn hậu can trường, tuổi trưởng thành thông minh kiên nghị. Hoàng Đế có họ là Công Tôn thị (公孫氏), do sống ở gò có tên Hiên Viên (軒轅) nên từ đó ông được gọi là Công Tôn Hiên Viên (公孫軒轅), là con của Thiếu Điển và con gái bộ tộc Hữu Kiệu là Phù Bảo (附寶). Mẹ ông đã nằm mơ thấy sao Bắc Đẩu rớt vào mình mà thụ thai sinh ra ông. Thuở nhỏ, ông rất thông minh, có tính thần linh, dáng vẻ ngoài rất kỳ dị, khi còn bọc trong tã đã biết nói, lớn lên cần cù hiểu biết sáng suốt, thường khuyên người đồng thời lo làm lành và tu ngũ đức, được bầu làm tù trưởng bộ lạc Hữu Hùng (有熊氏). Hoàng Đế sinh ra ở đất Thọ Khâu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) sau chuyển đến sống ở ven sông Cơ Thủy, từ đó mới lấy tên sông làm họ Cơ (姬).
[12] Hàn
Dũ (韓愈 768 – 824) tự Thoái Chi 退之,
sinh tại đất Hà Dương, Hà Nam, Trung Quốc (nay thuộc Mạnh Châu, tỉnh Hà Nam), tổ phụ người đất Xương Lê (nay thuộc Hà Bắc), nên ông thường tự xưng là Hàn Xương Lê (韓昌黎),
làm quan về đời vua Đường Hiến Tông
(806 - 820) tới Binh bộ thị lang, Lại bộ thị lang. Cha mẹ Hàn Dũ mất khi ông còn bé, sống cùng anh trai là Hàn Hội. Năm
781, Hội mắc bệnh chết nên ông cùng chị dâu trở về quê nhà tại Hà Dương, sau
chuyển tới Tuyên Thành.
Năm Trinh Nguyên thứ 2 (786)
ông tới Trường An
dự thi nhưng ba lần đều không đỗ. Cuối cùng, vào kỳ thi năm Trinh Nguyên thứ 8
(792), ông đỗ tiến
sĩ và ứng thi vào Lại bộ nhưng cũng không trúng ba lần. Đến năm Trinh Nguyên thứ
11 (795) mới được tiến
cử. Năm Trinh
Nguyên thứ 17 (801), ông nhậm chức tứ môn bác sĩ tại Quốc tử giám, rồi giám sát ngự sử.
Nhân Quan Trung
bị hạn hán kéo dài, ông đã dâng biểu "Ngự sử đài thượng luận thiên hạn
nhân cơ trạng", hặc tội quốc
thích là Kinh triệu doãn Lý Thực
nên bị biếm làm huyện lệnh Dương Sơn. Năm Nguyên Hòa thứ 6 (811), ông nhận chức Quốc tử bác sĩ, rồi làm Lang trung Lễ bộ. Năm 815 cùng Bùi Độ chinh phạt Hoài Tây, nhờ có công lao được cất nhắc
làm Thị lang
Hình bộ. Năm Nguyên
Hòa thứ 14 (819), nhân việc Đường Hiến tông cho rước Phật tích vào cung để thờ, Hàn dâng biểu
can gián, xuýt bị
Hiến Tông xử tử. May nhờ có các quan như Bùi Độ và Thôi Quần hết sức kêu xin, Hàn mới thoát khỏi
tội chết, bị giáng chức xuống làm thứ sử ở Triều Châu
xa xôi. Đường Mục
Tông lên ngôi, ông trở về
kinh, nhậm các chức vụ Quốc Tử giám Tế tửu,
Binh bộ thị
lang, Lại bộ thị
lang, Kinh triệu
doãn kiêm Ngự sử đại phu.
Năm 824, ông mắc bệnh chết, đến thời Nguyên Phong nhà Tống,
ông được truy phong là Xương Lê bá. Hiện tại, ở trấn Tây Quắc, huyện Mạnh Châu còn mộ của ông tại Hàn trang.
* Những chỗ
có đánh dấu (*) cũng là ghi chú của người dịch.
** Đầu đề của người dịch
** Đầu đề của người dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét