Thị tộc lược
đệ nhất
Thần cẩn án, Tư Mã Thiên [2] viết thư, Ban Cố [3] viết chí, Đông Quan [4] viết kí, Hoa Kiệu [5] viết điển, Trương Bột [6] viết lục, Hà Pháp Thịnh [7] viết thụy, các sử quan ghi chép được những điều có ý nghĩa là ở chí. Nhưng chí thì lại là cái danh của cổ sử, nay đổi viết lược, lược là đại cương vậy.
Khái lược về
Thị tộc
Từ thời Tùy Đường trở về trước, chức quan chỉ được ghi chép sơ sài, các nhà đều có phả hệ, còn việc tuyển cử quan lại tất do ở hồ sơ lưu, việc hôn nhân của các nhà tất do ở phả hệ. Các đời đều có đồ phả cục (cục vẽ phả hệ), bổ nhiệm lang lệnh sử nắm giữ, nhưng dùng nhà nho bác cổ thông kim chủ trì việc soạn phả sự. Phàm là trăm quan có gia trạng về họ tộc thì đó ắt là thượng quan, cần được khảo định kỹ càng đầy đủ, lưu giữ vào bí các, giao cho tả hộ giữ. Nếu như các thư sách riêng tư giữ được yên ổn, tất tập hợp theo quan tịch (hồ sơ phủ quan), nếu hồ sơ lưu giữ không đầy đủ thì ắt là phải tra cứu theo các thư sách riêng tư, cái chế độ cận cổ ấy dùng để ràng buộc thiên hạ, dùng người cao quý thì phải kính trọng, sai người hèn kém thì phải có uy vậy. Vì thế mà người ta coi trọng cái học về phả hệ, mọi nhà lưu giữ sách vở về phả hệ. Từ thời Ngũ quý [8] trở đi, chọn dùng kẻ sỹ [10] không còn hỏi về gia thế, hôn nhân không còn hỏi xem có phải con nhà phiệt duyệt (gia đình lớn, có của cải, thế lực, danh tiếng, có công tích, lịch lãm) hay không, cho nên các thư sách trong các gia đình đó bị thất tán, đến nỗi sở học của họ cũng không truyền lại được.
Thời Tam đại [12] trở về trước, họ tộc chia ra làm
hai, nam giới gọi là thị (氏), nữ giới gọi là tính (姓). Vì vậy mà thị phân biệt thành quý tiện, quý thì có
họ (氏), tiện thì có tên mà không có họ (氏). Ngày nay chư man ở phương nam cái đạo lý đó vẫn còn
lưu giữ. Ngày xưa chư hầu trách mắng chửi rủa đa phần nói: mất mạng, chết cả họ
(墜命亡氏 trụy mệnh vong thị),
quốc gia bại vong, vì việc làm sáng tỏ họ đã mất, cùng với việc giành được tước
thất quốc đồng (失國同) thì có thể biết
được đó là kẻ hèn kém vậy, họ (姓 tính) cũ có thể xưng là thị (氏), nhưng thị thì không thể xưng là tính được.
Còn tính phân biệt hôn nhân, vốn có sự phân biệt giữa
đồng tính, dị tính, thứ dân tính. Nếu thị mà đồng, tính bất đồng thì hôn nhân
được chấp thuận; Nếu tính mà đồng, nhưng thị bất đồng thì hôn nhân không được
chấp thuận. Thiên hạ đồng tính là một nhà, vì vậy mà đồng tính thì không thể kết
hôn. Ba đời Hạ, Thương, Chu trở về sau, tính và thị hợp làm một, vì vậy phân biệt
hôn nhân cũng lấy địa vọng [13] để xác định quý tiện. Đối với văn tự thì nữ
sinh ra là tính, từ “họ” xưa (故姓 cố tính) đa phần
liên quan tới nữ, như Cơ (姬), Khương (姜), Doanh (嬴), Tự (姒), Quy (媯), Cật (姞), Vân (妘), Chu (婤), Ấp (姶), Nữ Phi (女丕), Liệu (嫪). Đó chính là lý
do để phụ nữ như Bá Cơ (伯姬), Quý Cơ (季姬), Mạnh Khương (孟姜), Thúc Khương (叔姜) đều gọi là tính vậy
(Tất cả những cái tên trên viết bằng chữ Hán đều có bộ nữ 女)*. Làm sao Tư Mã Tử Trường (Tư Mã
Thiên*) biết được những điều nhỏ nhặt để nói Chu Công là Cơ Đán, Văn Vương là
Cơ Bá nhỉ? Thời Tam đại không bàn chuyện đó vậy, rất may là sau thời Tam đại,
tính thị hợp nhất, tuy Tử Trường biết chi tiết về hai đại sử gia ưu tú, nhưng
chuyện này vẫn còn mơ hồ vậy!
Cái học về họ tộc tối thịnh ở đời nhà Đường, nhưng quốc
tính thì lại không đi đến kết luận cuối cùng. Lâm Bảo viết Nguyên Hòa Tính Toản
[14] nhưng lại không hề biết nguồn gốc của bản thân tính. Thời Hán có quan phả
nhà họ Đặng (鄧氏官譜 Đặng thị quan phả),
Ứng Thiệu [15] có “Thị tộc thiên” (氏族篇), lại có cả “Dĩnh Xuyên Đại Thủ Liêu thị vạn tính phả”
(潁川大守聊氏萬姓譜). Triều Ngụy lập cửu
phẩm, đặt Trung chính, cấp châu có Đại Trung chính chủ bộ, cấp quận có Trung
chính công tào, tất cả đều có hồ sơ lưu, được chuẩn bị sẵn cho việc tuyển cử
quan lại. Tấn, Tống, Tề, Lương cũng theo như vậy. Tán kỵ Thường thị Cổ Bật,
Thái bảo Vương Hoằng của nhà Tấn xưa, Vệ tướng quân Vương Kiệm của nhà Tề, Bắc
Trung lang Tư nghị tham quân nhà Lương đều biết soạn phả sự, môn đệ của Vương
Tăng Nhụ, tất cả đều có Bách gia phả, Từ Miễn cũng có Bách quan phả. Hà Thừa
Thiên (何承天) [16] đời Tống
(420 - 479) soạn sách “Tính uyển” (姓苑) cùng “Hậu Ngụy Hà Nam quan thị chí” (後魏河南官氏志), hai bộ sách đặc dị đó chính là tông
miếu của ngôi nhà tộc họ vậy. Đường Đại Tông (762 - 779) lệnh cho chư nho soạn
Thị tộc chí (氏族志) 100 quyển, Liễu
Xung soạn “Đại Đường tính hệ lục” (大唐姓系錄) 200 quyển, Lộ Bức có
“Y quan phả” (衣冠譜), Vi Thuật có Khai
Nguyên phả (開元譜), Liễu Phương có
Vĩnh Thái phả (永泰譜), Liễu Xán có Vận
lược (韻略), Trương Cửu Linh
có “Vận phả” (韻譜), Lâm Bảo có
“Nguyên Hòa tính toản” (元和姓纂), Thiệu Tư có
“Tính giải” (姓解).
Các sách đó tuy đa dạng, nhưng đại khái có ba loại, là
luận địa vọng (論地望) [12], luận thanh
(論聲), và luận tự (論字). Bàn luận về tự (chữ) thì ắt phải lấy
thiên bàng (偏旁) [17] làm chủ, bàn
luận về thanh ắt lấy tứ thanh (四聲) [18] làm chủ, còn
bàn luận về địa vọng ắt lấy quý tiện làm chủ, nhưng quý tiện thăng trầm, thì có
gì là thường hằng chăng? Làm sao có thể chuyên lấy địa vọng làm chủ? Lấy thiên bàng
làm chủ khả dĩ là Tự thư (字書 sách vỡ lòng như
Tam tự kinh*) [19]; lấy tứ thanh làm chủ khả dĩ là Vận thư (韻書) [20], tất cả đều không liên quan đến
họ tộc (姓氏 tính
thị).
Phàm nói đến họ tộc (姓氏), là nói đến tất cả các bản thế bản
[23], nhị thư công tử phả, nhị thư cùng bản Tả truyện. Nhưng Tả thị [24] thì lại
hoàn toàn rõ ràng, do sinh ra được phú tính (姓), cấp đất, ban họ (氏) [(胙之土而命之氏 Tạc chi thổ nhi mệnh chi thị, 左傳,隱公八年 Tả truyện, Ẩn
công bát niên)], lại có tên hiệu, tên thụy, có quan tước, có thành ấp, những
năm món vậy. Nay tất không phải vậy, luận
được tính (姓), nhận ra họ (氏) có 32 loại thì luận đàm của họ Tả (Khâu Minh*) còn hạn hẹp lắm thay.
Thứ nhất lấy nước làm họ (氏), thứ hai lấy ấp làm họ. Thiên tử, chư hầu lập nước, tất nhiên lấy nước
làm họ, Ngu (虞), Hạ (夏), Thương (商), Chu (週), Lỗ (週), Vệ (衛), Tề (齊), Tống (宋) là loại họ như vậy.
Khanh đại phu lập ấp, cố nhiên lấy ấp làm họ, Thôi (崔), Lô (盧), Bào (鮑), Yến (晏), Tang (臧), Phí (費), Liễu (柳), Dương (楊) là loại họ như vậy.
Thứ ba lấy hương làm họ, thứ tư lấy đình (亭 đình, cơ quan hành chính cấp cơ sở thời
Tần Hán, 10 dặm là 1 đình, 10 đình là 1 hương*) làm họ. Phong kiến [25] có 5 hạng
tước, hạng công (公) rồi đến hầu (侯), hầu rồi đến bá (伯), bá rồi đến tử (子), tử rồi đến nam (男). Cũng có 5 hạng phong, hàng quốc hầu (國侯) rồi đến ấp hầu (邑侯), ấp hầu rồi đến quan nội hầu (關內侯) [26], quan nội hầu
rồi đến hương hầu (鄉侯), hương hầu rồi đến đình hầu (亭侯). Học giả cũng phân biệt thành 5 loại tước, nhưng
không xem xét phong 5 hạng. Quan nội ấp có Ôn (溫), Nguyên (原), Tô (蘇), Mao (毛), Cam (甘), Phiền (樊), Tế (祭), Doãn (尹) là loại họ như vậy. Nhưng còn tùy thuộc
vào loại ấp, sửa đổi mà không khác soạn ra. Các họ Bùi (裴), Lục (陸), Bàng (龐), Diêm (閻) được phong cho hương, nên lấy hương
làm họ. Các họ Mi (糜), Thải (採), Âu Dương (歐陽) được phong đình,
nên lấy đình làm họ.
Thứ năm là lấy đất làm họ. Có những người được phong đất,
lấy đất phong làm họ, những kẻ không được phong đất thì lấy đất nơi cư trú làm
họ. Đại khái không được lấy người làm họ, hoặc có thiện ác rõ ràng, loại tộc họ
thì phồn thịnh, vì vậy căn cứ vào nơi mà mình sống, người ta xưng tên, ắt là lấy
làm họ vậy. Kẻ sống ở Phó Nham [27] thì lấy Phó (傅) làm họ, chuyển đến Kê Sơn [28] thì lấy Kê (稽) làm họ, làm chủ tế ở Đông Mông [29] thì ắt lấy Mông
(蒙) làm họ, thủ mộ ở Kiều Sơn [30] ắt trở thành họ Kiều.
Có họ Nại vì Nại Ban được ăn lộc tại Nại Môn [31]; có họ Dĩnh vì Dĩnh Khảo Thúc
là người được phong Dĩnh Cốc [32]; có họ Đông Môn vì Đông Môn Tương Trọng được
phong ở Đông Môn [33], có họ Đồng Môn vì Đồng Môn Hữu Sư được ban ở Đồng Môn, tất
cả đều cùng cách ấy vậy. Những người ẩn dật, Cao Tố Lâm Tẩu sống ở Lộc Lý, nên
có họ Lộc Lý, sống ở Ỷ Lý, nên có họ Ỷ Lý, là để cho đẹp vậy.
___________________________________
Người dịch: Hà Hữu Nga
Nguồn: “通志•氏族略” 校對,編輯:詹招琳1995年11月7日 一,通志 卷二十五 氏族略第一. “Thông chí, Thị tộc lược”. Giáo đối, biên tập:
Chiêm Chiêu Lâm 1995 niên 11 nguyệt 7 nhật. Nhất, Thông chí, Quyển nhị thập ngũ thị tộc lược đệ nhất.
Chú thích của
người dịch:
[1] Trịnh Tiều (鄭樵 1104 - 1162) tự Ngư
Trọng, người thời Nam Tống ở Quân Phủ Điền Hưng Hóa, (nay là Phủ Điền, Phúc Kiến),
đại sử gia thời Tống, mục lục học gia, người đời gọi là Giáp Tế tiên sinh. Ông
sinh ra vào thời Bắc Tống năm Sùng Ninh thứ ba (1104), tại một gia đình thư
hương, nên được tiếp thu một nền giáo dục tốt ngay từ nhỏ. Năm Tuyên Hòa nguyên
niên (1119), cha là Trịnh Quốc Khí mất tại Cô Tô (nay là Tô Châu, Giang Tô). Trịnh
Tiều sinh ra không có ý định theo đòi khoa cử, dốc sức học hành trong 30 năm, lập
chí đọc hết các sách cổ kim, Tiều cùng anh trai Trịnh Hậu lần mò mọi nơi nhờ
tìm, mượn sách về đọc, “Tấc bóng chưa từng dám phí, gió sớm sương khuya khua
bút nào ngơi, bếp nguội lạnh vẫn đọc ngâm không dứt” ( “寸陰未嘗虛度,風晨雪夜執筆不休,廚無菸火而諷誦不絕”(《鄭樵文集》卷2《獻皇帝書》“Thốn âm vị thường hư độ, phong thần tuyết dạ chấp bút
bất hưu, trù vô ư hỏa nhi phúng tụng bất tuyệt”, Trịnh Tiều văn tập, Quyển 2); lập chí “tham ngốn
sách cổ kim, thèm làu thông bách gia chư tử, khát thạo sáu nghề cả văn lẫn võ,
vậy nên một đời chẳng chút bợn lòng” (“欲讀古今之書,欲通百家之學,欲討六藝之文而為羽翼,如此一生則無遺恨” dục độc cổ kim chi thư, dục thông bách gia chi học, dục
thảo lục nghệ chi văn nhi vi vũ dực, như thử nhất sinh tắc vô di hận). Trọn đời
theo nghiệp học, nào chuyên tâm khảo nghiệm cây cỏ, côn trùng, tôm cá, Tiều vẫn
luôn bên “nông phu lão dã đi về, cùng hạc đêm vượn sớm sum vầy” (“田夫老野往來,與夜鶴曉猿雜處” điền phu lão dã
vãng lai, dữ dạ hạc hiểu viên tạp xử [(《通志•昆蟲草木略序》Thông
chí - Côn trùng thảo mộc lược tự)]. Tiều đều để lại các thành tựu với các khoa kinh học, lễ nhạc,
ngôn ngữ, khoa học tự nhiên, văn hiến học, sử học, thiên văn, địa lý, trùng
ngư, thảo mộc [(《通志•天文略•天文序》)] cậy tài, không thua kém Lưu Hướng [(-77 đến -6 TCN, tôn thất nhà
Hán, đại học giả, quan lại, cha của Lưu Hâm), Dương Hùng [(揚雄, 53 TCN – 18, là nhà văn, nhà triết học cuối đời
Tây Hán, đầu đời Tân của Vương Mãng. Ông được Tam tự kinh xếp vào nhóm Ngũ tử) (《宋史》四三六卷《儒林列傳》六 Tống thư, Tứ tam lục quyển, Nho lâm Liệt truyện)], và cũng nổi tiếng
đương thời ngang ngửa với những danh tướng như Lý Cương, Hàn Thế Trung (《宋史》卷436《鄭樵傳》- Tống thư, quyển 436, Trịnh Tiều truyện). Năm Thiệu Hưng
thứ 19 (1149), đến kinh đô dâng sách “Chiếu tàng bí phủ” 140 quyển, được trao
chức Hữu địch công lang, nhưng không nhận (《建炎以來系年要錄》卷157 Kiến viêm dĩ lai hệ niên yếu lục, Quyển157). Thiệu
Hưng năm thức 20 (1152), tân quan Đồng An chủ bộ Chu Hy thượng sơn bái kiến Trịnh
Tiều, Tiều chỉ dùng có đậu hũ trắng, muối trắng, gừng trắng, bánh gạo trắng đãi
khách, hai người bàn luận về thơ văn ba ngày ba đêm. Thiệu Hưng năm thứ 27
(1157), bản thảo “Thông chí” hoàn thành, trong phần “Nhị thập lược” liên quan đến
nhiều lĩnh vực tri thức, có thể coi là bộ Bách khoa Toàn thư sớm nhất thế giới
vậy. Cùng trong năm này, Vương Luân (tiến sĩ, Giám sát Ngự sử) tiến cử Trịnh Tiều.
Thiệu Hưng năm thứ 28 (1158), Ứng Cao Tông triệu về trao chức Hữu địch công
lang, quản giác các văn tự Bộ binh, sau đổi trông coi nhạc miếu nam Đàm Châu.
Năm Thiệu Hưng thứ 31 (1161), Trịnh Tiều bộ hành 3000 nghìn dặm đến Lâm An,
dâng sách “Thông chí”, đúng thời gian đó Cao Tông đến Kiến Khang (nay là Nam
Kinh), không có dịp gặp mặt, ban chiếu thăng Tiều làm xu mật viện biên tu kiêm
quyền kiểm tường chư phòng văn tự. Thiệu Hưng năm thứ 32 (1162), mùa xuân Cao
Tông Triệu Cấu quay về Lâm An, ngày 7 tháng 3 lệnh cho Trịnh Tiều dâng trình
“Thông chí”, chính ngày nhận chiếu chỉ thì Trịnh Tiều bệnh chết. Trịnh Tiều trứ
thuật suốt đời, “Thập niên nghiên cứu kinh điển”, biên soạn các sách sau: “Thư
khảo”, “Thi biện vọng”, “Xuân thu khảo” gồm: “Tam niên vi lễ nhạc chi học”;
có “Ích pháp”, “Hệ thanh nhạc phủ”; “Ba năm nghiên cứu văn tự học”, có “Tượng
loại thư”, “Tục hãn giản”, “Phạm thư biên”; “Ngũ lục vi thiên văn địa lý chi học,
vi trùng ngư thảo mộc chi học, vi phương thư chi học”, “Thiên văn thư”, “Xuân
thu địa danh”, “Nhĩ nhã chú”, “Thi danh vật chí”, “Bản thảo thành thư”; “Tám
chín năm nghiên cứu thảo luận đồ phả học, vong thư học”, có “Cầu thư khuyết
kí”, “Giáo cừu bị lược”, “Thư mục chánh ngoa”, “Đồ thư chí”, “Tập cổ hệ địa lục”,
gồm 81 bộ và hơn 900 quyển, hầu hết không lưu truyền được, chỉ còn lại “Thông
chí”, “Nhĩ nhã chú”, “Thi biện vọng”, “Lục kinh áo luận”, “Hệ thanh nhạc phổ”
24 quyển và “Giáp Tế di cảo”. Trong đó việc ghi chép lại điển chương chế độ
trong “Thông chí” là tối trọng yếu; thư chí trong “Nhị thập lược” có ý nghĩa
tương đương như chính sử, đó là bản từ Tam hoàng Ngũ đế, ghi chép thành chính
thư đến thời Tùy Đường.
[2] Tư Mã
Thiên ( - 145 - ?), tự Tử Trường, người Hạ Dương (nay là Hàn
Thành nam, Thiểm Tây).
Là đại sử gia, văn gia thời Tây Hán, con trai Tư Mã Đàm. Năm 99 TCN ông bị vướng
vào vụ Lý Lăng (李陵) thua trận quân Hung Nô ở miền Bắc.
Hán Vũ Đế và đa số các quan trong triều cho rằng tội trạng thuộc về Lý Lăng, chỉ
có một mình Tư Mã Thiên bênh vực vị tướng này. Hán Vũ Đế cho rằng Tư Mã Thiên bảo
vệ Lý Lăng để ngầm chê Lý Quảng Lợi, anh vợ của Vũ Đế, là nhát gan. Tư Mã Thiên
bị tội tử hình, nếu không chuộc bằng tiền bạc hoặc bị cung hình (thiến). Do không đủ tiền chuộc, ông đành chọn bị cung
hình và bị cầm tù. Sau khi ra tù, Tư Mã Thiên trao làm Trung thư lệnh, là chức
quan to chỉ dành cho hoạn quan. Luôn cảm thấy nhục nhã vì hình phạt, ông dồn tất
cả tâm sức cho bộ Sử ký và hoàn thành vào năm năm 91 TCN. Theo Vương Quốc
Duy trong “Thái sử công niên khảo”
có lẽ ông mất vào năm 60 tuổi, năm 86 TCN cùng một năm với Vũ đế. Thời trai trẻ, ông
thụ học với Khổng An Quốc (孔安國), Đổng Trọng Thư (董仲舒), đi đây đi đó phân tích diễn giải phong tục, thu thập
viết thành các tập truyện. Khi mới nhậm chức Lang trung, phụng sứ đi tây nam.
Năm Nguyên Phong thứ ba ( -108) làm Thái sử lệnh kế thừa sự nghiệp của cha, trứ
thuật lịch sử. Ông là người hiểu thấu con người và sự vật, thông suốt biến cải
cổ kim, trở thành người luận đàm duy nhất (究天人之際,通古今之變,成一家之言 Cứu thiên nhân chi
tế, thông cổ kim chi biến, thành nhất gia chi ngôn). “Sử ký” được công nhận là
điển phạm sử thư của Trung Quốc từ thời Hoàng đế đến Hán Vũ đế Nguyên Thú
nguyên niên, trong vòng 3000 năm lịch sử. Sử ký trở thành thủ lĩnh của Nhị thập
ngũ sử (Sử ký, Hán thư, Hậu Hán thư, Tam quốc chí, Tấn thư, Tống thư, Nam Tề
thư, Lương thư, Trần thư, Ngụy thư, Bắc Tề thư, Chu thư, Tùy thư, Nam sử, Bắc sử,
Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Cựu Ngũ đại sử, Tân Ngũ đại sử, Tống sử, Liêu sử,
Kim sử, Nguyên sử, Minh sử, Tân Nguyên sử, Thanh sử cảo), và Lỗ Tấn gọi là “Sử
gia tuyệt đỉnh, Li Tao không vần” (史家之絕唱,無韻之離騷 Sử gia chi tuyệt xướng, vô vận Li Tao).
Ở đây Lỗ Tấn xót xa nhắc lại lời Tư Mã Thiên viết về Li Tao của Khuất Nguyên: Li Tao là do ưu sầu mà làm ra vậy,
離騷者, 猶離憂也 Li Tao giả,
do li ưu dã, (史記: 屈原賈生傳 Sử Kí, Khuất Nguyên Giả Sinh truyện).
[3] Ban Cố (班固 32 – 92 SCN), tự Mạnh
Kiên, người An Lăng, Phù Phong (nay là Hàm Dương, Thiểm Tây), là sử gia, văn
gia trứ danh thời Đông Hán. Ban Cố xuất thân thế gia Nho học, cha là Ban Bưu,
bác là Ban Tự, đều là những học giả nổi tiếng thời đó. Nhờ cha ông đào luyện,
lên 9 tuổi, Ban Cố đã có khả năng viết văn tự, tụng đọc thi phú, 16 tuổi nhập
thái học (là hệ thống đào tạo học vấn tối cao thời Hán), học rộng mọi thư sách,
từ kinh điển Nho gia, lịch sử, triết học, không gì là không tinh thông. Năm Kiến
Vũ thứ 30 (54 SCN), Ban Bưu chết, Ban Cố đến kinh thành Lạc Dương đưa cha về
quê an táng, bắt đầu với cơ sở “Sử ký hậu truyện” của Ban Bưu, Cố bắt tay soạn
“Hán thư” từ đầu chí cuối mất hơn 20 năm, vào giữ thời Kiến Sơ (76-84 SCN) thì
cơ bản hoàn thành. Thời Hán Hòa Đế năm Vĩnh Nguyên nguyên niên (89), đại tướng
quân Đậu Hiến suất quân bắc phạt Hung Nô, Ban Cố tùy quân xuất chinh, nhậm chức
Trung hộ quân, hành trung lang tướng, tham nghị quân cơ đại sự, bị đại bại. Đậu Hiến là ngoại thích trong triều,
anh của Đậu Thái hậu. Vì uy quyền của Đậu Hiến quá lớn, Hán Hòa đế quyết định
trừ hậu họa. Năm 92, Hòa Đế sai hoạn quan Trịnh Chúng bất ngờ tập kích, bắt hết
anh em và thủ hạ họ Đậu, khiến Hiến phải tự sát. Khi cùng Đậu Hiến đi đánh Hung
Nô, ông đã để người nhà lạm quyền làm bậy, xô xát với Xung Kinh nhưng do ông có
quan hệ với Đậu Hiến nên Xung Kinh đành chịu. Khi Đậu Hiến bị xử tội, Xung Kinh
mang việc trước ra tố cáo, do đó Ban Cố bị bắt giam và và qua đời, thọ 61 tuổi.
Cả
đời Ban Cố trứ thuật rất nhiều. Với tư cách là sử học gia, “Hán thư” là sự
tiếp nối của “Sử kí” của Trung Quốc cổ đại về sau và cũng là bộ sử trọng yếu,
là một trong “Tiền tứ sử” (là 4 trong Nhị thập tứ (24) bộ sử, gồm có: i) Sử ký
của Tư Mã Thiên; ii) Hán thư của Ban Cố; iii) Hậu Hán thư của Phạm Diệp; và iv)
Tam quốc chí của Trần Thọ). Với tư cách là nhà viết phú, Ban Cố là một trong
“Hán phú tứ đại gia” (Hán phú tứ đại gia là Tư Mã Tương Như, Dương Hùng, Ban Cố,
và Trương Hành). “Lưỡng đô phú” (兩都賦) đã khai sáng mô
thức kinh đô phú [(Dương Hùng là tác gia sớm nhất của thể loại kinh đô phú, ông
ca tụng Thành Đô trong “Thục đô phú” đã
gây ảnh hưởng lớn. Đông Hán sơ, Đỗ Đốc viết một thiên miêu tả “Luận đô phú” về
kinh đô, là nơi phồn hoa đô hội, vì vậy kinh đô phú chính thức bắt đầu trở
thành trào lưu. Về sau văn học gia, sử học gia Ban Cố thời Đông Hán sáng tác
“Lưỡng đô phú”, Trương Hành “Nhị kinh phú”, tiếp đến văn học gia Tây Tấn là Tả
Tư viết “Tam đô phú”, tất cả đều vì chốn phồn hoa ấy đều làm nên “danh thiên”
(thiên sách danh tiếng) trong kinh đô phú)], được đưa vào thiên thứ nhất của
“Văn tuyển”. Đồng thời, Ban Cố còn là một nhà lý luận về kinh điển học, ông
biên soạn thành “Bạch hổ thông nghĩa” (白虎通義) là tập đại thành đương thời về kinh học, sử sấm vĩ
thần học được lý luận hóa, pháp điển hóa. [(《漢書·卷九·元帝紀第九》“Hán thư, Quyển cửu, Nguyên đế kỉ đệ cửu”; 《漢書注·卷九·元帝紀第九》“Hán thư chú, Quyển cửu”; 《後漢書》卷79《儒林列傳》 “Hậu Hán thư”, Quyển 79 “Nho lâm liệt
truyện”; 《後漢書·班固傳贊》“Hậu Hán thư, Ban Cố
truyện tán”.《漢書·司馬遷傳》“Hán thư, Tư Mã Thiên truyện”)]
[4] Đông
Quan (東觀) là Tàng thư lầu Hoàng gia, tại Nam Cung, thành Lạc
Dương, hoặc là nơi đây dùng để trước thuật kiêm coi quản hồ sơ, điển tịch cung
đình thời Đông Hán. Không có bất cứ tài liệu nào để khảo về niên đại tu tạo Nam
Cung, Lạc Dương. Ở đây kiến trúc cao đại hoa lệ, trên tầng cao nhất có 12 gian,
bốn phía xung quanh nhìn thấy điện các, xung quanh sum suê cây xanh bóng mát, cảnh
trí rất u nhã. Từ thời Chương Đế, Hòa Đế về sau, là nơi lưu giữ hồ sơ của cung
đình và là nơi tu soạn sách sử chủ yếu. Tàng thư lầu Đông Quan có ngũ kinh, chư
tử, truyện ký, nghệ thuật bách gia, về sau còn mở cửa cho các cận thần tập
trung đọc kinh truyện các loại. Cái tên Đông Quan gắn liền với bộ “Đông Quan
Hán ký”, thời Hán người ta gọi là “Đông quan kí”, có 143 quyển, là một bộ sử
Đông Hán, đồng thời còn là cơ quan biên soạn sử đương đại đầu tiên của Trung Quốc.
Bộ ký này bắt đầu từ thời Quang Vũ đế (5 TCN – 57 SCN), kết thúc vào thời Linh
đế (156 – 189 SCN), do Lưu Trân (?-126 SCN), Diên Đốc (?-167 SCN) cùng những
người khác thời Hán soạn, vì Tu sử quán đặt ở Đông Quan nên lấy đó làm tên.
[5] Hoa Kiệu
(華嶠 ?-293 SCN), tự Thúc Tuấn, người Cao Đường,
Bình Nguyên (nay là Vũ Thành, Sơn Đông). Là sử gia thời Ngụy Tấn, xuất
thân vọng tộc huyện Cao Đường, là cháu Hoa Hâm, con trai thứ ba Hoa Biểu. Ban đầu
làm thuộc lại cho Tư Mã Chiêu, bổ Thượng thư lang, sau chuyển thành Xa kị Tòng
sự Trung lang. Thời Tấn Vũ đế, được ban tước Quan nội hầu, chuyển làm Thái tử
Trung thứ tử, rồi bổ Thái thú An Bình. Năm Nguyên Khang thứ 3 (293) chết. Sử
sách gọi ông là hiểu rộng biết nhiều (博聞多識 bác văn đa thức), các trứ tác có:
“Lương sử chi chí”, làm quan đến Bí thư giám Nội đài Trung thư, chuyên quản về
đồ thư điển tịch (kho sách và các tài liệu, kinh điển), sách “Biến quan bí tịch”
của ông soạn thành “Hán hậu thư” 97 quyển. Lúc sinh thời, Kiệu có kế hoạch đổi
“chí” thành “điển”, dự định soạn 10 thiên, nhưng chưa hoàn thành thì chết, “Thập
điển” của “Hán Hậu thư” ngõ hầu còn chưa xong, về sau do con là Hoa Triệt tiếp
tục trứ tác, nhưng cũng chưa xong thì chết, em Triệt là Sướng tiếp tục, cuối
cùng “Thập điển” cũng được hoàn thành. Những năm cuối thời Tây Tấn, bản thảo “Hậu
Hán thư” lưu tán thất lạc, chỉ còn sót lại hơn 50 quyển, Phạm Diệp thời Tống
Nam Triều (420 - 479) viết “Hậu Hán thư” lấy sách của Hoa Kiệu làm lam bản (tài
liệu nguồn) trực tiếp dẫn dụng Hoa Kiệu luận tán, nhưng Phạm Diệp kiểm nghiệm
phương pháp của Hoa Kiệu không đầy đủ khi sao chép, chẳng hạn như Hoa Kiệu viết
Dương Chấn (54 – 124, học giả, quan lại nổi tiếng vì là 四世太尉, 四世三公 tứ thế Thái úy, tứ thế tam công: bốn đời thái úy, bốn
đời tam công) chết viết “薨 hoăng” (vì là đại thần*), trong bản của Phạm Thư lại
chỉ viết “卒tốt” (quan
lại, đại phu chết, vẫn chữ đó, đọc là tuất). [(《晉書•華表(子嶠)傳》,《晉書•華嶠傳》,姚振宗《隋書經籍志考證》.“Tấn thư – Hoa Biểu (tử Kiệu) truyện”, “Tấn thư - Hoa
Kiệu truyện”, Diêu Chấn Tông “Tùy thư kinh tịch chí khảo chứng”)].
[6] Trương
Bột (張勃 ?-?) năm sinh, năm mất không rõ, ông là đại thần thời
Hán Tuyên đế (91-49 TCN) và Hán Nguyên đế (76-33 TCN). Thời Hán Vũ đế con trai
là danh thần Trương Thang, thời Hán Tuyên đế có cháu là Trương An Thế, Phú Bình
hầu Trương Diên Thọ là chắt. Cha con liên tục thừa tập tước Phú Bình hầu, được
phong quan Tán kỵ gián đại phu, được phong quốc vị ở Bình Nguyên. Thời Nguyên Đế,
nhân vụ việc ông tiến cử Trần Thang phạm tội nên bị tước thực ấp 200 hộ. (Về Trần
Thang, thuở nhỏ thích đọc sách, tính tình phóng khoáng, nhưng vì nhà nghèo
nên không được dân làng coi trọng. Sau lưu lạc đến Trường An, quen biết Trương
Bột, được Bột tiến cử Thang ra làm quan, trong khi chờ đợi triều đình phân bổ
chức quan, cha Thang mất nhưng không về chịu tang nên bị hạ ngục. Bột bị triều
đình khiển trách và tước mất hai trăm hộ thực ấp. Về sau, Thang xin được đi sứ
Tây Vực rồi làm phó hiệu úy Đô hộ phủ ở Tây Vực*). Do về sau Thang được thăng
tiến nên người đời gọi Bột là hiểu người tuyển tài (知人善選 tri nhân thiện tuyển).
Sau khi Bột chết, con là Trương Lâm thừa tập Phú Bình hầu quốc [(《漢書•張湯傳》(卷五九). Hán thư, Trương Thang truyện, Quyển ngũ cửu)].
[7] Hà Pháp
Thịnh (何法盛 ? - ?) người thời Nam Bắc Triều nhà Lưu Tống,
là nhà sử học, làm quan tới Tương Đông Thái thú. Hà Pháp Thịnh xuất thân hiển
quý từ xã hội thượng lưu thời đó. Vì sinh ra vào thời Phật giáo hưng thịnh nên trong
danh tự của ông có từ “Pháp” thể hiện rõ sắc thái sùng trọng Phật pháp. Các trứ
tác của ông có sử thư thể kỷ truyện (tương tự Sử ký Tư Mã Thiên*) “Tấn trung
hưng thư” tổng cộng gồm 78 quyển viết về các sự tích thời Đông Tấn. Hậu thế có
ý nói sách đó không phải là thủ bút của ông, mà là của Si Thiệu (郗紹). Hà Pháp Thịnh xem thấy bộ sách do Si Thiệu viết,
sau thừa dịp Si Thiệu không ở nhà bèn lấy cắp bộ sách. Si Thiệu là sử gia Đông
Tấn – Tống Nam Triều, quê quận trị Cao Bình, nay là Kim Hương, Sơn Đông, là chắt
của Si Giám, làm đến Quốc tử Tế tửu, Đông Hải vương sư. Ông viết “Tấn Trung
hưng thư” (晉中興書) có đưa
cho Hà Pháp Thịnh xem. Thịnh có ý ăn trộm làm của mình, gặp Si Thiệu nói: Ngài
danh vị đều quý đạt, việc gì phải đợi chờ cái thứ danh hão ấy. Ta học trò
nghèo, đến giờ vẫn chẳng tiếng tăm gì, chỉ như đồ đệ của Viên Hoành, Can Bảo cậy
nhờ vào viết lách mà để tiếng về sau. Nên dùng mà làm ân huệ”. Si Thiệu không
ưng cho. Đến khi sách hoàn thành, Hà Pháp Thịnh đến thăm Si Thiệu, Thiệu đi vắng,
liền lấy trộm, kết cục trở thành sách của Hà Pháp Thịnh. [(《隋書•經籍志》載“《晉中興書》七十八卷”,題宋湘東太守何法盛撰“Tùy thư, Kinh tịch chí” tái “Tấn trung hưng thư” thất
thập bát quyển”, đề Tống Tương Đông thái thú Hà Pháp Thịnh soạn)]. Về sau, đến năm Trinh Quán thời nhà Đường trước khi có
quan tu Tấn thư, sách này được liệt vào một trong “Thập bát gia Tấn sử”. Đồng
thời cũng trở thành nguồn tham khảo sử liệu quan trọng triều Tấn và 16 nước của
các sử quan đời nhà Đường. ChỈ đến loạn An Sử làm bùng phát sự việc xưng tụng
hiển đạt làm cho việc soạn viết Tấn thư rơi rụng bất minh, trong số đó có 14
quyển quyển mục hoàn toàn thất tán. Tất cả những gì liên quan đến quyển mục
(sách kê theo mục) “Tấn trung hưng thư” của Hà Pháp Thịnh cũng bị thất tán, chỉ
còn lại 7 quyển. Tuy nhiên, một phần nội dung của “Tấn trung hưng thư” do người
đời Thanh là Thang Cầu (1804 – 1881 được tiến cử Hiếu liêm Phương chính năm 63
tuổi, chuyên về Tấn sử) biên tập vẫn còn được ra mắt người đọc. Cho đến nay vẫn
còn có 2 cuốn “Chúng gia biên niên thể Tấn sử” (《眾家編年體晉史》) và “Cửu gia cựu Tấn thư tập bản” (《九家舊晉書輯本》) tập hợp được một phần nội dung. Ngày nay, trong sinh
hoạt hàng ngày, có hai thành ngữ có nguồn gốc từ “Tấn trung hưng thư” (《晉中興書》) của Hà Pháp Thịnh là 勢成騎虎 “Thế thành kỵ hổ” (ở vào tình trạng “cưỡi trên lưng cọp”),
cưỡi cọp khôn buông (騎虎難下 kỵ hổ nan hạ) và 家雞野雉 “Gia kê dã trĩ” nói về việc Đô đình hầu Canh Dực thời
Tấn coi thư pháp của mình là gà nhà (gia kê 家雞) còn thư pháp của Vương Hy Chi là chim
trĩ (野雉dã trĩ), để ý nói gần với nghèo hèn mà lánh xa hiển quý.
[8] Ngũ quý (五季) là chỉ 5 đời: hậu Lương, hậu Đường,
hậu Tấn, hậu Hán, hậu Chu; y học Trung
Quốc lấy bốn mùa phối hợp với ngũ hành thì thành ngũ quý, tức là xuân thuộc mộc,
hạ thuộc hỏa, trường hạ [9] thuộc thổ, thu thuộc kim, đông thuộc thủy; nguyên tắc
của tự nhiên trong ngũ quý tất phải là: sinh (ra), trưởng (thành), hóa (biến
hóa), thu (thu về), tàng (cất giữ).
[9] Trường hạ (長夏) là từ đa nghĩa,
thứ nhất chỉ những ngày mùa hạ, đọc là “trường hạ”. Vì vào mùa này, ban ngày
khá dài, cho nên gọi là “trường hạ” (ngày mùa hạ dài). Một nghĩa khác chỉ 6
tháng âm lịch, đọc là “trưởng hạ” (mùa hạ tăng thêm), trưởng chính xác là nghĩa
sinh trưởng.
[10] Sĩ (士) trong thời Xuân Thu (771 – 476 TCN),
Tây Chu (440 – 256 TCN), là tên gọi tầng lớp công chức phong kiến thống trị, hầu
hết là gia thần của các khanh đại phu [11]. Thời Tây Chu, đây là tầng lớp ở dưới
tầng lớp khanh đại phu và ở trên thứ dân. Từ mạt kỳ Xuân Thu trở đi, dần dần sĩ
trở thành tầng lớp thống trị với danh nghĩa tri thức. Xuân Thu Chiến Quốc chính
là thời kỳ hình thành “sĩ nhân”, và chính Khổng Tử là người đưa ra tiêu chuẩn
lý luận về tầng lớp “sĩ”. Trong sách “Luận ngữ - Tử Lộ”, Tử Cống hỏi: “Như thế
nào thì có thể gọi là kẻ sĩ, thưa Thầy?” Khổng Tử đáp: “Tự lập thân mà có liêm
sỉ, sai đi tứ phương mà không làm nhục mệnh vua thì có thể gọi là sĩ vậy”. “Luận
ngữ - Chương Thái Bá”: “Kẻ sĩ không thể không rộng lượng, cam đảm, vì gánh nặng,
đường xa. Đức nhân là ta tự gánh, chẳng phải
nặng sao? Đến chết mới buông gánh, há chẳng xa sao? ”. Đó là cái học
thuyết coi trọng tính toàn vẹn cá nhân về phương diện đạo đức, coi trọng bản
thân, là người trung quân ái quốc thì có thể được gọi là “sĩ”. Các khái niệm
“sĩ” và “quân tử” về phương diện nào đó, có lúc cơ bản là rất nhiều tầng nhiều
lớp vậy. Giả sử phân nhỏ thì chắc chắn việc tu dưỡng đức hạnh của kẻ “sĩ” sẽ
đòi hỏi phải ngang với bậc “quân tử” hạ thấp đôi chút, vậy có thể nói “sĩ” là
có chí hướng đến trở thành người quân tử. Tuân Tử hướng tới việc phân biệt “sĩ”
thậm chí còn tỷ mỷ hơn nữa, cái gọi là “cũ sao kẻ sĩ làm quan” “cũ sao kẻ sĩ ở ẩn”
(荀子•儒效 “Tuân Tử - Nho hiệu”), thì chính là dòng nước trong vậy.
Tuân Tử hướng tới yêu cầu tối minh xác về kẻ sĩ là phục tùng đạo chứ không phải
phục tùng vua (從道不從君 tòng đạo bất tòng quân). Kẻ sĩ tham chính, cần phải
truy tìm giá trị cơ bản của Nho gia, mà đạo nhân nghĩa chính là nền tảng. Điều
đó cũng có nghĩa là đối với Tuân Tử, Khổng Mạnh ở vị trí hàng đầu trong việc
xác lập khuôn phép cơ bản của kẻ sĩ, đó là kẻ sĩ chuyên tâm vào đạo (士志於道 sĩ chí ư đạo) (論語,里仁第四 Luận ngữ, Lý nhân đệ tứ)]. Tinh thần
ấy của kẻ “sĩ”, về phương diện thực tiễn khả dĩ có thể là “hiệp sĩ”. Như việc
ám sát Tần Vương Doanh Chính của Kinh Kha thất bại, tại thời điểm xuất phát trước
khi thành tựu, Kinh Kha sảng ngôn: “Gió hiu hiu hề sông Dịch lạnh ghê, Tráng sĩ
một đi hề không trở về” (風瀟瀟兮易水寒,壯士一去兮不復還 Phong tiêu tiêu hề Dịch Thủy hàn, Tráng sĩ nhất khứ hề
bất phục hoàn); đây là sứ
mệnh mà bậc quân vương đã phó thác, không thể tiếc rẻ sinh mạng mình, mà vẫn sảng
khoái đem phẩm chất cao khiết ra để làm thành điển phạm tinh thần của kẻ sĩ cho
muôn đời sau. Phẩm chất đó cùng với tinh thần của Khổng Tử cũng là đồng nhất vậy.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc quần hùng cát cứ, chiến loạn liên miên. Chư hầu có tên
tuổi, tiền của các nước như Xuân Thân Quân, Mạnh Thường Quân, thảy đều lấy việc
nuôi kẻ sĩ trong nhà (養士 “dưỡng sĩ”)
làm thời thượng, có khi tối đa lên đến vài ngàn người, lại cùng bàn bạc rất
khoa trương. Điển tích “Mao Toại tự tiến cử” cho thấy tầng lớp kẻ “sĩ” đương thời
đều không có một tiêu chí riêng biệt nào, được sử dụng làm quy chiếu chung về
người tài khác với người bình thường. Họ thường xuất thân từ những gia đình bần
hàn hoặc là quý tộc thất thế, chỉ giỏi duy nhất một nghề (一技之長 nhất kỹ chi trường),
ấy là nương tựa vào tầng lớp quý tộc, giúp họ có được các phương tiện mưu sinh.
Có những học sĩ viết sách lập thuyết, có những kẻ tri kỷ sẵn sàng đem cái chết
ra đền ơn, có những thuật sĩ hiểu biết âm dương lịch toán, có những kẻ giỏi bày
mưu đặt kế. Thậm chí họ tự xưng có tài để có thể thuyết phục được tầng lớp quý
tộc, trở thành hạng “sĩ tộc” (士族), chẳng hạn như: Kinh Kha vì thái tử
nước Yên mà đi giết Tần vương, Phùng Huyên làm khách ở nhà Mạnh Thường Quân, Tô
Tần hợp tung, v.v.. [(余英時:〈東漢政權之立與士族大姓之關係〉,頁281-284. (Dư Anh Thời: “Đông
Hán chính quyền chi lập dữ sĩ tộc đại tính chi quan hệ”, hiệt 281 – 284.); 《國語•晉語四》:「公食貢,大夫食邑,士食田,庶人食力,工商食官,皂隸食職,官宰食加」(“Quốc ngữ, Tấn ngữ tứ”: “Công thực cống, đại phu thực ấp,
sĩ thực điền, thứ nhân thực lực, công thương thực quan, tạo lệ thực chức, quan
tể thực gia”); 近藤一成:〈宋代的士大夫與社會〉,頁217. (Cận Đằng Nhất
Thành: “Tống đại đích sĩ đại phu dữ xã hội”, hiệt 240 -241); 陶晉生:《北宋士族》,頁1-4. (Đào Tấn Sinh: “Bắc Tống sĩ tộc”, hiệt 1-4)].
[11] Khanh đại phu (卿大夫): Thời Xuân Thu-Tây Chu, khanh đại phu là thần thuộc của
quốc vương và chư hầu được ban phong đất đai. Quy định họ phải phục tùng lệnh
vua, đảm nhiệm các chức quan trọng yếu, phù trợ nhà vua thực hiện việc cai trị,
dồng thời tuân lệnh nhà vua trong việc huy động cống phú và các nghĩa vụ phục dịch
khác. Nhưng trong số các khanh đại phu đó chỉ có một người làm chủ, truyền đời
kiểm soát đại quyền quân chính của các đô ấp phụ thuộc. Vì chế độ phân phong thời
Tây Chu đã hình thành, nên cũng ra đời trật tự các đẳng cấp tương ứng: Thiên tử
- chư hầu – khanh đại phu – sĩ.
[12] Thời Tam đại (三代) trong lịch sử Trung Quốc là ba triều
Hạ, Thương, Chu gọi chung là tam đại. Từ “Tam đại” thấy sớm nhất ở thời Xuân
Thu, trong sách Luận ngữ, quyển Vệ Linh công: Dân thời nay, cứ lấy đạo ngay thẳng
thời Tam đại mà thật hành vậy (“斯民也,三代之所以直道而行也” Tư dân dã, tam đại chi sở dĩ trực đạo nhi hành dã).
Sang thời Chiến Quốc, Tam đại vẫn dùng để chỉ Hạ, Thương và Tây Chu. Chỉ đến sau đời
nhà Tần thì Tam đại hàm ý cả thời kỳ Đông Chu. Thời sơ kỳ nhà Chu, hai triều Hạ
và Thương được gọi chung là Nhị đại. [(徐俊. 中國古代王朝和政權名號探源. 湖北武昌: 華中師範大學出版社. 2000年11月: 1. Từ Tuấn (2000).
Trung Quốc cổ đại vương triều hòa chính quyền danh hiệu tham nguyên. Hồ Bắc Vũ
Xương: Hoa Trung Sư phạm Đại học Xuất bản xã. 2000 niên 11 nguyệt: 1.; 《荀子•王制》:“道不過三代,法不貳後王” Tuân Tử, Vương chế”:
“Đạo bất quá tam đại, pháp bất nhị hậu vương”; 《論語•為政》“Luận ngữ, Vi chính”; 《四書或問•孟子或問》卷1, “Tứ thư hoặc vấn, Mạnh Tử hoặc vấn”, quyển 1.; 《朱文公文集》卷36 “Chu Văn công Văn tập”
quyển 36.)].
[13] Địa vọng (地望): Thời Ngụy Tấn trở
đi, thực hành chế độ “cửu phẩm trung chính” (九品中正制) [2], tầng lớp chúa đất (士族 sĩ tộc), các họ lớn (大姓 đại tính) thao túng quyền lực đẳng cấp
tuyển cử tại các địa phương, một họ có các mối quan hệ rộng rãi ở các quận huyện
sở tại, gọi là địa vọng.
[14] Nguyên Hòa Tính Toản (元和姓纂) là sách chuyên về phả điệp họ tộc thời Đường. Năm Nguyên Hòa thứ 7 (812), Đường Hiến Tông,
Thái thường Tiến sĩ Lâm Bảo phụng chiếu soạn thành, lấy tính, vọng, phòng (cư
dân), hệ thống kết cấu ba cấp xây dựng thư tịch về nguồn gốc các tộc họ, nguyên
bản 10 quyển. Thời nhà Thanh soạn Tứ khố Toàn thư (四庫全書) vốn biên soạn từ
“Vĩnh Lạc Đại điển” (永樂大典), đồng thời tiến
hành công việc đính chính, tập hợp thành 18 quyển, các học giả nhà Thanh là Tôn
Tinh Diễn (孫星衍 1753 - 1818), Hồng Oánh (không
rõ năm sinh năm mất) tiến hành công việc so sánh đối chiếu lần hai, sau đó La
Chấn Ngọc tiếp tục kiểm tra, đối chiếu lần thứ ba, Sầm Trọng Miễn cũng tiếp tục
kiểm tra đối chiếu, viết thành “Nguyên Hòa Tính toản Tứ giáo kí” (元和姓纂四校記), đặc biệt quan trọng ở “Sam ngộ” (芟誤), “Thập di” (拾遺), “Chính bản” (正本) “Phạt Ngụy” (伐偽), công lực tối
thâm hậu, đạt được kết quả tối đa; Vương Trọng Lạc cũng viết “Quan ư Sầm Trọng
Miễn Nguyên Hòa Tính toản Tứ giáo kí” (關於岑仲勉元和姓纂四校記), so sánh với Sầm
Trọng Miễn thì không bằng, nhưng cũng đem lại nhiều điều bổ ích.
[15] Ứng Thiệu (應劭) tự Trọng Viện,
người Nam Đốn, Nhữ Nam (nay là Hạng Thành, Hà Nam) thời Đông Hán, năm sinh, năm
mất không rõ, có giao thiệp với Tào Tháo, thời gian Tháo chiếm cứ Hà Bắc vào
năm 207 thì ông đã qua đời. Cha là Ứng Phụng làm đến Tư lệ hiệu úy. Có người em
trai là Ứng Tuần.Ứng Sướng, Ứng Cừ
là chú. Thời niên thiếu, Thiệu dốc sức học hành, hiểu rộng biết nhiều, thời Hán
Linh đế được cử làm Hiếu liêm, từng nhậm chức huyện lệnh Tiêu Huyện, ngự sử
doanh lệnh. Năm Hy Bình thứ 2 làm Lang quan, năm thứ 6 là chủ bộ Nhữ Nam, năm
Trung Bình thứ 6 (184) nhậm chức thái thú Thái Sơn. Thời Hiến đế Sơ Bình năm thứ
2 (191) đại phá vài vạn giặc khăn vàng Hoàng Cân. Thời gian làm thái thú Thái
Sơn, phụng mệnh Tào Tháo đưa cha Tháo là Tào Tung về quê, Ứng Thiệu không đến,
Đào Khiêm đến trước, cướp bóc và giết chết Tào Tung, Ứng Thiệu sợ Tào Tháo hỏi
tội, nên chạy đến Viên Thiệu xin theo, trở thành quân mưu hiệu úy cho Viên Thiệu.
Sau chết ở Nghiệp Huyện. Ông có viết “Hán quan nghi” (漢官儀) 10 quyển, “Phong tục thông nghĩa” (風俗通義) 30 quyển, “Hán thư tập giải âm nghĩa” (漢書集解音義) 24 quyển. Ngoài ra ông còn soạn “Xuân Thu đoạn ngục”
(春秋斷獄). Hiện nay chỉ còn “Phong tục thông” 10 quyển, hựu
Nghiêm Khả Quân (1762-1843, đại học giả triều Thanh, người Ô Trình, Chiết
Giang) thu thập, chỉnh lý.
[16] Hà Thừa Thiên (何承天 370-447) nổi tiếng là tư tưởng gia, thiên
văn học gia, âm nhạc gia nhà Tống Nam Triều. Ông người Đàm Nhân, Đông Hải (nay
là Lâm Nghi, huyện Lan Lăng, Sơn Đông). Ông là cháu nội của Hữu vệ tướng quân
Hà Luân Chất nhà Tây Tấn. Lên 5 tuổi cha chết, Hà Thừa Thiên được mẫu thân nuôi
dưỡng, theo học cậu ruột Từ Quảng, những năm cuối nhà Đông Tấn nhậm Phụ quốc phủ
Tham quân, thái thú Tầm Dương. Thời Nam Triều nhậm Thượng thư tái thừa. Do xúc
phạm quyền quý nên bị vu hãm và bị bãi quan; sau này Tống Văn đế hạ mật chỉ cho
nhậm chức Lại bộ lang, nhưng vì tiết lộ mật chỉ nên Hà Thừa Thiên bị bãi. Sau
đó mất tại nhà. Hà Thừa Thiên từng dâng tấu đổi “Nguyên gia lịch” (元嘉歷), đính chính lịch cũ, trong đó đính chính thời khắc
đông chí và thời nhật đông chí vốn là những tri thức rất thông dụng trong quan
sát thiên văn của Trung Quốc cổ. Ông luận về chu thiên độ số và cự li hai cực
tương đương cách tính số pi (pi = 3.1415926), ước tính là 3.1429 độ, và ảnh hưởng
rất lớn đến lịch pháp hậu thế. Kiêm thông âm luật, ông phát minh ra một cách tiếp
cận tân luật gọi là thập nhị bình quân luật (十二平均律), có tài đánh đàn tranh, sở trường chơi cờ, ông có viết
các sách “Đạt tính luận” (達性論), “Dữ tông cư sĩ thư” (與宗居士書), “Đáp nhan quang lộc” (答顏光祿), “Báo ứng vấn” (報應問). Ông từng phụng mệnh tu soạn “Tống thư” (宋書), chưa kết thúc thì chết. [(何承天.中國蘭陵[引用日期2016-12-03] Hà Thừa Thiên Trung
Quốc lan lăng [dẫn dụng nhật kì 2016-12-03; 宋書 卷六十四 列傳第二十四.國學導航[引用日期2016-12-13; Tống thư, Quyển lục
thập tứ liệt truyện đệ nhị thập tứ. Quốc học đạo hàng [dẫn dụng nhật kì 2016
- 12-13; 何承天籍貫 Hà Thừa Thiên tịch quán)].
[17]. Thiên bàng (偏旁) là chỉ một thể đối hợp chữ (字 tự) được tiến hành phân chia để rồi
sau đó đạt tới một bộ phận nhất định nào đó. Lấy phần bên phải của hợp thể chữ
ban đầu gọi là “thiên” (偏 = lệch), thì phần bên trái là “bàng” (旁 = bên); giờ đây ta
có hợp thể chữ tạo thành bộ phận gọi chung là “thiên bàng”. Vị trí bên phải chữ
gọi là “tả thiên bàng”; ở bên trái gọi là “hữu thiên bàng”.
[18]. Tứ thanh (四聲) là khái niệm âm vận học Hán ngữ, được bắt đầu sử dụng
để gọi 4 thanh điệu trong Hán ngữ trung cổ.
Trong các loại Hán ngữ địa phương thì tứ thanh cũng được sử dụng bằng
vay mượn từ vựng ngôn ngữ như Tráng ngữ, Việt Nam ngữ, có những biểu hiện diễn
biến bất đồng, mà hiện nay các loại Hán ngữ địa phương vẫn theo lối cũ sử dụng
danh xưng tứ thanh hoặc biến thể của nó để gọi bản thân các thanh điệu. Khả
năng khái niệm tứ thanh trong Hán ngữ thượng cổ đã tồn tại, đó tức là “cổ tứ
thanh” (古四聲). Nhưng tứ thanh được coi là một đề xuất khái niệm tất
khởi nguồn từ Thẩm Ước nhà Lương thời Nam Triều, Lương thư – Thẩm Ước truyện (梁書•沈約傳) ghi lại việc Thẩm
Ước viết bản Tứ thanh phả (四聲譜) chuyên thảo luận
về vấn đề này. Tứ thanh phả cũng ghi lại việc Lương Vũ đế cung gặng hỏi Chu Xá
(周舍469-524, Tiến sỹ, Tả
quang lộc Đại phu, bác học đa tài, giỏi điển lễ) tứ thanh là gì. Xá đáp: Thiên
tử thánh triết (天子聖哲). Về sau, Lục Pháp
Ngôn [(562- ? 鮮卑人 người Tiên Ty, âm vận
học gia, năm Nhâm Thọ nguyên niên (601) viết “Thiết vận” (切韻) 5 quyển, có ảnh hưởng lớn đến hậu thế)] đã chuẩn hóa
tứ thanh là “bình thượng khứ nhập” (平上去入). Kỳ thực câu trả
lời của Chu Xá “Thiên tử thánh triết” (平上去入) và “bình thượng
khứ nhập” (平上去入), tuy dùng chữ bất đồng, nhưng nội hàm lại nhất trí:
[天 thiên] và [平 bình] cùng là “bình thanh”; [子 tử] và [上 thượng] cùng là
“thượng thanh”; [聖 thánh] và [去 khứ] đều là “khứ thanh”; [哲 triết] và [入 nhập] đều là “nhập
thanh”. Tuy nhiên “Thiết vận” ra đời, lưu truyền xa rộng, [bình thanh] (平聲), [thượng thanh] (上聲), [khứ thanh] (去聲), [nhập thanh] (入聲) cuối cùng trở thành phiếm xưng của Tứ thanh.
[19] Tam tự kinh (三字經) là truyền thống viết tài liệu học tập
khai mở cho tuổi nhi đồng của Trung Quốc, trong kinh điển cổ đại Trung Quốc,
Tam tự kinh là độc bản tối giản rõ ràng, dễ hiểu. Tam tự kinh chọn những điển cố
có tính khuôn phép rộng rãi, bao quát 5000 năm truyền thống văn hóa, lịch sử,
văn học, triết học, thiên văn địa lí, nghĩa lý nhân luân, trung hiếu tiết nghĩa với nội dung khá phong phú. Học thuộc lòng
Tam tự kinh cũng đồng thời nắm bắt, phân tích các tri thức thông thường, truyền
thống quốc học và lịch sử, các sự kiện mang tính giáo dục đạo lý. Về mặt nào
đó, với cách thức ba chữ một câu thuận miệng như ngâm như hát, với lời văn gần
gũi, lưu loát, có đặc điểm dễ nhớ, làm cho người ta cảm thấy thân thiết với
“Bách gia tính (百家姓), “Thiên tự văn” (千字文), “Thiên gia thi” (千家詩) đã tạo thành một khóa học tư thục sơ
cấp nhập môn, được gọi là “Tam bách thiên thiên” (三百千千). [( 三字經 正統文化教材精解. 益群書店股份有限公司.
2009-11-20. 1. Tam tự kinh chính thống văn hóa
giáo tài tinh giải. Ích quần thư điếm cổ phần hữu hạn công ti. 2009
- 11-20.; 《三百千千》,《教育部重編國語辭典修訂本》 “Tam bách thiên thiên”, “Giáo dục bộ
trọng biên quốc ngữ từ điển tu đính bản”; 傅, 璇宗. 《王應麟著作集成》總序. 《清華大學學報(哲學社會科學版)》.
2011-04-01, 26 (4): 47. Phó Tuyền Tông. “Vương ứng lân trứ tác tập thành” Tổng tự. “Thanh
Hoa Đại học Học báo (Triết học Xã hội Khoa học bản). 2011 – 04 - 01, 26
(4) : 47.
[20] Vận thư (韻書) là khảo sát âm vận và sắp xếp, soạn
thành tự điển. Ghi chép, xây dựng hồ sơ từng nghĩa của mỗi từ nếu vẫn còn
nghĩa, khôi phục việc sử dụng cách phiên thiết [21] để ghi lại một âm đọc. Vận
thư và vận biểu [22] không đồng nhất trong cách xử lý. Tùy thuộc vào vận biểu
chiếu theo mỗi cách thức xác định mà sắp xếp âm, vần, điệu thích hợp từ đó về
sau. Ngay từ rất sớm, mục đích của việc biên soạn Vận thư là vì sáng tác văn học,
là phương tiện cho thi nhân dựa theo vần điệu mà mô tả thi ca. Đồng thời Vận
thư còn có tác dụng là một pho tự điển: có thể theo âm đọc của chữ mà kiểm tra
ý nghĩa.
[21] Phiên thiết (反切) trong chữ Hán là dùng âm của hai chữ khác (được coi
là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho cách đọc âm của một Hán. Phiên thiết
là một phương pháp ghi chú cách đọc của người Trung Quốc, dùng trong các tự điển
chữ Hán, trước khi có phương pháp dùng chữ Latin để ghi chú cách đọc ghép vần gọi
là bính âm (拼音). Nghĩa là dùng âm của những chữ Hán
thông dụng, mà chỉ dẫn cách đọc một chữ Hán mới theo quy tắc lấy phụ âm đầu (thanh
mẫu 聲母) của chữ thứ nhất ghép với vần (vận
mẫu 韻母) chữ thứ hai. Ví dụ chữ 聲 được Thuyết văn Giải tự quyển 12 phiên là
“thư doanh”, thanh mẫu là “th” vận mẫu là “oanh” và âm đọc phiên thiết là
“thanh”. Với
phương pháp trên, có thể có rất nhiều cách phiên thiết cho một chữ Hán.
[22] Vận biểu (韻表), còn gọi là vận đồ (韻圖), là một trong những loại ngữ âm biểu cổ đại, nó giúp cho toàn bộ cách thức mô tả phát âm của chữ Hán trong một tập hợp các dạng thức, người xem vận biểu tìm kiếm trong đó một chữ bất kỳ nào đó tức thì có thể kiểm tra tất cả các hàng dãy mà chữ đó thuộc về nó để xác định được cách thức phát âm. Trong cách phiên thiết của Vận thư thể hiện cách đọc âm, và cũng có thể xuất hiện trong hệ thống thể hiện của vận biểu. Hiện nay vẫn còn một vận đồ tối cổ, đó chính là “Vận kính”.
[23] Thế bản (世本) còn gọi là tác thế (作世), thế hệ (世系), thế kỉ (世紀), thế điệp (世牒), điệp kí (牒記), phả điệp (譜牒). “Thế” là chỉ thế
hệ; “bản” tất là biểu thị sự khởi nguồn. Y cứ vào thuyết cho là do các sử quan
thời tiên Tần (cũng có thuyết cho là thời Hán) các sử quan đã tu soạn, ghi chép
về các thế hệ cùng họ tộc (thị tính) của các “Đế vương”, “Chư hầu”, “Khanh đại
phu” từ thời Hoàng Đế đến thời Xuân Thu, vì vậy mà cũng ghi chép các đô ấp, việc
sản xuất, kể cả phép tắc đặt tên thụy của họ. Tất cả các bộ sách đó có thể phân
thành các loại “Đế hệ” (帝系), “Vương hầu thế” (王侯世), “Khanh đại phu thế” (卿大夫世), “Thị tộc” (氏族), “Tác thiên” (作篇) và “Cư thiên” (居篇) cho đến “Thụy
pháp” (諡法), tất cả là 50 thiên.
[24] Tả thị (左氏) viết đầy đủ là “Tả thị Xuân Thu”, còn có tên gọi “Xuân Thu Tả thị truyện”, tương truyền
do quan Thái sử nước Lỗ là Tả Khâu Minh sáng tác, trước đây vẫn viết là Tả thị.
Tả Khâu Minh là quân tử nước Lỗ, Khổng Tử có kết giao với ông. Cũng có thể ông
lớn tuổi hơn Khổng Tử, vì vậy mà Khổng Tử thường dẫn lời ông. Khâu Minh còn viết
sách “Quốc ngữ”.
[25] Phong kiến (封建) là cách nói tắt của
phong bang kiến quốc (封邦建國) tức “Phong thổ kiến
quốc” (封土建國). Tức thiên tử lấy phần đất bên ngoài khu vực quản hạt
trực tiếp của mình mà phong cấp cho chư hầu, đồng thời ban cho những kẻ đó các
tước vị; đến lượt mình, chư hầu lại tái phân phong cho các quý tộc, chư hầu
cùng quý tộc tự mình quản lý phần lãnh địa đó. Mục đích của phân phong là nhường
quyền cho chư hầu kiến lập phong quốc và quân đội, bảo vệ chính quyền trung
ương, thu mua nhân tâm. Phong bang kiến quốc là một loại chế độ xã hội. Do cộng
chủ, hoặc vương triều trung ương ban cấp cho các thành viên trong vương thất,
vương tộc và công thần phân phong lãnh địa nên tạo thành một phạm trù chế độ
chính trị phụ thuộc. Sau khi Vũ Vương diệt Trụ, luận công ban thưởng, đại phong
cho công thần huynh đệ được coi là phên dậu của vương thất nhà Chu đã làm xong.
Khương Thái công có công đầu nên được phong tại Tề. Đầu thời nhà Chu, việc
phong bang kiến quốc trước sau tổng cộng là 71 phong quốc, trong đó họ Cơ chiếm
tới 53 phong quốc, khu vực Trung Nguyên có Khang Thúc, phương đông có Thái Công
Vọng và Bá Cầm, khu vực Hà Đông có Đường Thúc, phương bắc có con trưởng Triệu Công,
phía nam có “Hán Dương Chư Cơ” (các con
gái họ Cơ) và hai bá phụ của Chu Văn vương.
[26] Quan nội hầu
(關內侯), thời cổ
gọi là Nội hầu, còn gọi là Luân hầu. Thời Tần Hán một bậc như nhau, sau đó sinh
ra đối lập giữa việc tưởng thưởng các tướng lĩnh có quân công, người có tước hầu,
nhưng quyền thống trị mà lại không có lãnh thổ, chỉ có tại các thực ấp quy định
quyền trưng thu tô thuế. Từ Ngụy Tấn về sau, dần dần thực hành hư phong, Quan nội
hầu với tước vị là một hạng, chẳng qua chỉ là tước vị danh xưng. Vì quan nội hầu
đều gọi là “quân” (君) như “Bao Thành quân” chẳng hạn, cũng có gọi là hầu,
như Lưu Kính được phong Kiến Tín hầu.
[27] Phó
Nham (傅巖) địa danh cổ, hiện
nay thuộc huyện Bình Lục, tỉnh Sơn Tây. Một hôm vua nhà Thương là Vũ Đinh (1250 – 1192 TCN) nằm mơ gặp người tên là Duyệt, bèn hỏi
các đại thần nhưng không ai biết, ông tự mình đi tìm, khi đến đất Phó, nghe nói
có người tên là Duyệt đang phạm tội, phải đi đắp đường ở chỗ hiểm trở. Vũ Đinh
bèn sai triệu Duyệt đến ông thấy Duyệt là người tài, bèn tha tội đưa về triều
phong làm tướng và lấy đất Phó ban cho Duyệt nên từ đó lấy đất Phó làm họ và mọi
người gọi là Phó Duyệt.
[28] Kê tính (嵇姓), căn cứ vào
“Nguyên Hòa Tính toản”, vua Hạ là Thiếu Khang phong cho con là Quý Trữ đất Hội
Kê, nên sau có họ Kê ở đây. Đến đầu đời nhà Hán, gia tộc Kê thị di đến Kê Sơn Tiếu
Quận và định cư ở đó nên đổi thành “Kê” thị. Ngoài ra sách “Văn chương tự lục” ghi,
Kê Khang nguyên họ Hề thị, từ Hội Kê di đến Tiếu Quận, Trí Huyện, lấy chữ Kê (稽) có bộ bán (半) ở trên đổi thành
Kê (嵇) nên có họ Kê.
[29] Đông Mông (東蒙) Mông tính có nguồn gốc từ tên núi và tên chức quan
mà thành. Dưới triều nhà Chu, có chức quan là Đông Mông chủ (東蒙主), cai quản, chủ trì tế tự Mông Sơn (蒙山). Những người làm chức quan này và con cháu cư trú tại
Mông Sơn, lấy tên núi ấy làm họ, và hình thành cả dòng họ Mông vậy. Sách “Luận
ngữ, Thiên 16, Quý thị” viết: “Nhiễm Hữu, Quý Lộ đến gặp Khổng Tử thưa: “Họ Quí sắp đánh nước Chuyên Du”. Khổng tử nói: “Này Cầu, việc
đó là lỗi của anh sao? Nước Chuyên Du, tiên vương đã làm chủ ở núi Đông Mông, mà lại ở chính trong nước nữa,
vậy là bề tôi của xã tắc, sao lại đánh người
ta”. Nhiễm Hữu thưa: “Thầy Quý muốn vậy, còn hai chúng con là bề tôi, đều
không muốn vậy”.
[30]. Kiều Sơn (橋山), sơn mạch ở phía tây tỉnh Thiểm Tây, là Đại
Kiều Sơn tức Tý Ngọ Lĩnh (子午嶺), nằm ở giao giới
Thiểm Tây - Cam Túc, phía nam tiếp liền Diệu Châu (nay là Diệu Châu khu), bắc chắn
Diêm Châu (nay là huyện Định Biên), kéo dài liên tục hơn 800 dặm” “Đại Minh nhất
thống chí”), nổi tiếng là đại lộ cổ. [(《史記•封禪書》dài Sử ký, Phong thiện thư)].
[31]. Dĩnh Khảo Thúc (潁考叔 ? – 712 TCN): Năm743 Trịnh Trang công lên ngôi, theo lời thỉnh cầu của mẹ phong
cho em là Cơ Đoạn ấp Kinh. Cơ Đoạn được phong ấp Kinh, gọi là Thái Thúc Đoạn (太叔段). Các đại thần lo ngại Thái Thúc Đoạn sẽ làm phản. Đoạn xây thành
mới, tụ tập quân lính và vũ khí, chuẩn bị đánh vào kinh đô. Năm 722 TCN, Thái
thúc Đoạn đánh Trịnh Trang công, mẹ là Vũ Khương làm nội ứng. Trịnh Trang công sai
Tử Phong mang quân đánh Thái Thúc Đoạn ở đất Kinh. Người đất Kinh thấy quân Trịnh
đến bèn phản lại Đoạn. Cuối cùng, do không chống lại nổi nên Đoạn tự vẫn. Trịnh
Trang công giận mẹ giúp Đoạn làm phản nên an trí Vũ Khương tại ấp Dĩnh và thề “bất
đáo hoàng tuyền bất tương kiến” (不到黃泉不相見) chỉ gặp lại mẹ khi nào xuống Hoàng
Tuyền. Đại phu Dĩnh Khảo Thúc khuyên ông nên giữ đạo hiếu với mẹ. Vì vậy Trịnh
Trang công muốn đón mẹ về, nhưng còn ngại lời thề. Dĩnh Khảo Thúc bày cho ông đào
hầm đất, đến chỗ có suối chảy, coi đó là Hoàng Tuyền, sai người rước Vũ Khương
tới làm lễ gặp mặt, hai mẹ con nối lại tình cảm cũ. [(《左傳》, 隱公 Tả truyện,
Ẩn công)].
[32] Nại thị
(耏氏): Thời Xuân Thu (771 – 476 TCN) Đại phu nước Tống Nại Ban (耏班), lấy danh tự của tổ tiên làm họ. Sách “Tả truyện -
Văn Công thập nhất niên” viết: “Rồi Tống công lấy cửa thành thưởng cho Nại Ban,
dùng cổng thành mà thu bổng lộc, nên gọi là Nại Môn vậy”. Chu Khoảnh Vương Cơ
Nhâm Thần (? – 613 TCN) năm thứ 4, Tống Chiêu Công lấy thuế thu được từ cổng
thành ban thưởng cho đại phu Nại Ban, hậu thế bền gọi là “Cổng Nại” (耏門 Nại môn). Sau này hậu duệ của Nại Ban lấy danh tự làm
họ, gọi là Ban thị (班氏), các thế hệ tiếp nối đến ngày nay vậy.
[33] Đông Môn Tương Trọng (東門襄仲 ? - 601 TCN), Trọng Toại
(仲遂), Công tử Toại (公子遂) hay Đông Môn Toại (東門遂), tên thật là Cơ Toại (姬遂)
là đại phu nước Lỗ thời Xuân Thu. Ông là con trai nhỏ của Lỗ Trang công, vua thứ
16 của nước Lỗ và em Lỗ Hi công, vua thứ 19 của nước Lỗ. Sau khi Lỗ Hi công lên
ngôi, ông làm đại phu ăn lộc ở đất Đông Môn và được hưởng thế tập. Năm 634 TCN,
Lỗ và Tề đánh nhau, Tề Hiếu công mang quân đi đánh biên giới phía bắc nước Lỗ,
vua anh Lỗ Hi công sai Tương Trọng cùng Tang Văn Trọng đi sứ nước Sở cầu viện.
Sở Thành vương điều quân cứu Lỗ, buộc vua Tề phải rút quân về. Năm 632 TCN, sau
khi Tấn Văn công đánh bại quân Sở nắm quyền bá chủ, nước Lỗ lại ngả theo nước Tấn.
Lỗ Hi công nhiều lần sai Tương Trọng đi sứ, kết giao với nước Tấn và nước Tề. Năm
620 TCN, nước Từ đem quân đánh nước Cử, Trọng Tôn Ngao đem quân cứu Cử cũng
cùng lúc thay Tương Trọng đón Cử Nữ sang, Tôn Ngao say mê sắc đẹp của Cử Nữ nên
thông dâm. Tương Trọng tức giận, xin Lỗ Văn công giúp binh đánh Trọng Tôn Ngao,
Lỗ Văn công bắt Trọng Tôn Ngao trả Cử Nữ về nước. Năm 619 TCN, Chu Tương vương
qua đời, Trọng tôn Ngao đi sứ nhà Chu để điếu tang, sau phải trốn sang nước Cử
để gặp Cử Nữ, nước Lỗ lập con là Trọng Tôn Cốc thế tập. Trọng tôn Ngao nhớ nước,
nhờ Trọng Tôn Cốc giúp mình về, Tương Trọng nghe tin, bắt Trọng Tôn Ngao không
được tham gia chính sự nữa mới cho về. Trọng Tôn Ngao đành phải chấp nhận,
nhưng chỉ hai năm sau lại trốn sang nước Cử, cuối cùng chết ở nước Tề. Năm 609
TCN, Lỗ Văn công qua đời, ông có hai người vợ là Ai Khương sinh ra công tử Ác
và công tử Thị cùng Kính Doanh, sinh ra công tử Nỗi, Lỗ Văn công lập Ai Khương
làm phu nhân và công tử Ác làm thế tử. Tương Trọng nhân đi sứ nước Tề, nhờ Tề
Huệ công giúp mình, Tề Huệ công đồng ý. Tháng 10 năm đó, Tương Trọng lừa giết
công tử Ác, công tử Thị lập Cơ Nỗi lên làm vua, tức Lỗ Tuyên công, rồi giết
Thúc Trọng Huệ bá. Ai Khương bỏ về nước Tề. Năm 601 TCN, Đông Môn Tương Trọng
qua đời. Ông làm đại phu trong 3 đời vua Lỗ. Sau khi Tương Trọng mất, Lỗ Tuyên
công phong cho hai con của ông là công tôn Quy Phụ và công tôn Anh Tề làm đại
phu, hình thành hai họ đại phu mới là Tử Gia và Trọng. [(《春秋左氏傳·僖公》Xuân Thu Tả thị truyện,
Hy Công;《春秋左氏傳·文公》Xuân Thu Tả thị truyện,
Văn Công;《春秋左氏傳·宣公》Xuân Thu Tả thị truyện,
Tuyên Công)].
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét