Powered By Blogger

Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2020

Thật tiễn quá khứ - Cá nhân và Tác nhân trong Khảo cổ học (I)


Knapp, A.B. and van Dommelen

Người dịch: Hà Hữu Nga


Các nhà khảo cổ học tìm cách khảo sát vai trò của con người trong các xã hội quá khứ từ lâu đã giả định, có ý thức hoặc vô thức, về sự tồn tại của các cá nhân. Trong nghiên cứu này, chúng tôi khám phá các khái niệm và chiều kích khác nhau của ‘cái cá nhân, cả về dân tộc học và khảo cổ học. Chúng tôi chỉ ra rằng nhiều nhân vật chính trong cuộc luận chiến về sự tồn tại của các ‘cá nhân trong thời tiền sử sử dụng các ví dụ dân tộc học tương tự để bàn luận về lập trường của họ. Các lập trường này bao gồm từ việc khẳng định rằng bất kỳ gợi ý nào chỉ đơn giản về các dự án của các cá nhân t 500 năm về trước là một cấu trúc của tính hiện đại của phương Tây đối với quá khứ, đến quan điểm cho rằng các bản sắc cá nhân là các cấu trúc xã hội cụ thể về phương diện văn hóa, kể cả quá khứ lẫn hiện tại. Giống như hầu hết những ai tham gia vào cuộc tranh luận, chúng tôi cũng hoài nghi về một nhân loại tính không thay đổi trong quá khứ, nhưng chúng tôi lại cảm thấy rằng việc suy nghĩ về chủ đề này đã bắt đầu có đôi chút khó nhân nhượng. Do đó, để phản bác lại cuộc tranh luận này, chúng tôi thảo luận về khái niệm habitus (thói quen) của Bourdieu, liên quan đến khái niệm quyền lực của Foucault. Chúng tôi kết luận rằng tự trải nghiệm bản thân như một cá thể sống là một phần của bản chất con người, và các nhà khảo cổ nên xem xét lại tầm quan trọng xã hội, không gian và ý thức hệ của cái cá nhân, cũng như sự tồn tại của cá nhân, bao gồm cả các cuộc đời trong thời tiền sử cũng như các bối cảnh lịch sử.

Kết quả [của các công trình gần đây về tác tố (agency)]đã phải gộp làm một với tác nhân (the actor)…và do đó cho rằng bằng chứng của tác tố cũng hệt như bằng chứng đối với các cá nhân, các chủ thể hoặc tự ngã. Nhầm lẫn này là một điều dễ hiểu, và trong khảo cổ học, nguồn gốc của nó dường như ẩn trong những nỗ lực hoàn toàn cần thiết và đáng khen ngợi để suy tư về các thuộc tính cụ thể của các cá nhân trong quá khứ và vai trò của họ đối với sự thay đổi văn hóa và xã hội. (Moore 2000, 260).

Vẻ ngoài của phương pháp và lý thuyết khảo cổ ngày nay, và sự say mê hiện thời của nhiều nhà khảo cổ học với khái niệm ‘tác tố’, dường như có rất ít lý do để thách thức với tuyên bố thẳng thắn này của Henrietta Moore. Từ việc xử lý khảo cổ chiều sâu, sớm nhất của công trình The Personal in Prehistory (Hill & Gunn 1977), đến lần gặp mặt gần đây trong một phiên họp quá đông tại cuộc họp thường niên lần thứ 100 của Hiệp hội Nhân học Hoa Kỳ (Hai mươi lăm năm sau cái Cá nhân trong Tiền sử, New Orleans, ngày 21 tháng 11 năm 2002), thông qua một loạt các tác phẩm cả 'quá trình' (ví dụ Renfrew 1972, 503–4; Hayden 2001, 254–8; Snow 2002) lẫn 'hậu quá trình' (ví dụ Shanks & Tilley 1987, 61–78; Meskell 1999, 8–36; Hodder 2000; 2003; Tarlow 2002, 26–7; Gosden 2004, 33–9; Kristiansen 2004, 83–5), các nhà khảo cổ học muốn mở tung những cánh cửa về vai trò của con người trong các xã hội quá khứ thường thừa nhận, có ý thức hoặc vô thức, sự tồn tại của các cá nhân.

Tuy nhiên, Thomas (2004a, 147
-8) đã thách thức những giả định kém chất lượng về sự tồn tại của các cá nhân, ít nhất là ở châu Âu t khoảng 500 về trước: “… để áp đặt khái niệm cái cá nhân vào quá khứ xa xôi là một lối thật hành nguy hiểm và có khả năng là quá tự yêu mình... Nếu thân phận (personhood [1] – trạng thái, vị thế là một cá nhân) mang tính quan hệ, thì chúng ta nên khám phá các mối quan hệ nào cho phép nhân tính tự sáng tạo và bền bỉ trong quá khứ, và cố gắng phân biệt được nhân tính là thế nào, thay vì cho rằng cái cá nhân siêu việt luôn ngự tại trung tâm vạn vật.

Theo quan điểm của ông, khái niệm về cái cá nhân hiện đại đã bám chặt trong trí tưởng tượng khảo cổ học (Thomas 1996, 63-4). Từ lâu ông đã cho rằng cái cá nhân 'hợp lý' hoặc 'tự trị' hay 'siêu việt' này là một cấu trúc văn hóa độc đáo cho tính hiện đại phương Tây và triết lý chính trị đặc trưng nhất của nó – chủ nghĩa tự do nhân văn luận, và việc phóng chiếu cái 'bóng ma cá nhân' này về quá khứ không chỉ là lỗi thời mà thực sự là một biến thể của tộc người trung tâm luận của quá khứ (Thomas 2002a, 30; 2004a, 136-7). Ngay cả các nhà khảo cổ học lịch sử, như Martin Hall (2000, 9-10), cũng cảm thấy rằng bằng cách giả định một nhân loại không thay đổi trong quá khứ, chúng ta đã tự mở ra cho mình những diễn giải vòng quanh và làm cho các khảo sát mang tính lịch sử của chúng ta trở nên tự kỷ.

Ở phạm vi rộng, Fowler (2004, 3-6) theo sự dẫn dắt của Thomas, cho rằng con người trong quá khứ không nhất thiết phải là 'cá nhân hóa' như người hiện đại, và những quan niệm ngày xưa về thân phận và bản sắc có lẽ gắn chặt với bối cảnh ( giống như ngày nay) và liên quan mật thiết đến các tương tác xã hội và các mối quan thiết của cộng đồng. Kirk (2006, 333-5) ít lạc quan hơn và, trong khi thảo luận về các ý thức ngẫu nhiên (tức là không pha trộn, không ổn định theo thời gian) của thân phận có thể được tạo thành thông qua các thật hành vật chất khác nhau diễn ra tại một số di tích thời kỳ đồ đá mới ở miền Nam nước Anh, thì không phủ nhận khả năng một số hình thức 'đặc thù lịch sử' của cái cá nhân có thể đã tồn tại trong quá khứ. Khi xem xét thời kỳ đồ đá mới ở đông nam châu Âu, Chapman (2000) đã phát triển một mô hình nhân học ‘thân phận’ để xem xét các quá trình phân mảnh và tích lũy gắn liền giữa người và vật như thế nào. Theo quan điểm của ông, những người - không phải các ‘cá nhân (individuals) mà là các ‘phân nhân’ (‘dividuals’) - được tạo thành từ tổng các mối quan hệ của họ. Jones (2005) đã tạo ra mạng lưới của mình rộng rãi hơn, bằng cách xem xét thời kỳ đồ đá mới ở châu Âu rộng hơn và xem xét nhân vật đó được cấu thành ra sao trong giai đoạn chuyển đổi này. Ông gợi ý rằng thân phận là một khái niệm liên quan đóng vai trò trung tâm để hiểu tổng thể về thời kỳ đồ đá mới ở châu Âu, và chúng ta phải cẩn thận để không tổng gộp cả cái cá nhân hay cái ‘phân nhân. Jones lao vào nghiên cứu các thật tiễn xã hội, cách thức mà những cá thể người (persons) được tạo rađược thật hiện thông qua các mạng quan hệ - khác nhau trong từng bối cảnh lịch sử và liên quan đến cả con người và tính vật chất.

Về nhiều khía cạnh, cơ quan nghiên cứu về Thời kỳ Đá mới châu Âu và Anh đã có xu hướng chuyển trọng tâm của cuộc tranh luận từ các cá nhân sang những con người riêng lẻ, hoặc thân phận, các khái niệm mà chúng tôi sẽ thảo luận chi tiết dưới đây. Trong nghiên cứu này, mục tiêu của chúng tôi là khám phá và tìm cách tối thiểu hóa các lập trường vẫn còn phân cực về sự tồn tại của các cá nhân trong quá khứ. Chúng tôi thảo luận về những khái niệm khác nhau đầu tiên và các chiều kích của ‘cái cá nhân (bao gồm cả thân phận), bằng cách trích dẫn một số vấn đề khoa học xã hội và dân tộc học đã ảnh hưởng đến tư duy khảo cổ về chủ đề này. Sau đó, chúng tôi xem xét những cách thức mà các nhà khảo cổ học, và đặc biệt là các nhà tiền sử học đã sử dụng khái niệm cái cá nhân và những khác biệt xảy ra sau đó. Giống như Thomas, chúng tôi không sử dụng một nghiên cứu trường hợp cụ thể hoặc các nghiên cứu để minh họa các quan điểm của mình, nhưng chúng tôi sẽ trích dẫn một số ấn phẩm có liên quan.

Khi khảo sát kỹ hơn, cuộc tranh luận thường gay gắt được thật hiện trong công trình của Lynn Meskell và Julian Thomas nói riêng, cho thấy những dòng mạch chung về sự hiểu lầm, một số vấn đề trong đó thật chất có tính liên ngành (dân tộc học so với khảo cổ học) và một số vấn đề liên lĩnh vực (khảo cổ học quá trình so với khảo cổ học hậu quá trình, khảo cổ học châu Âu so với khảo cổ học Địa Trung Hải). Ở đây, chúng tôi chỉ ra rằng các nhân vật chủ chốt của cuộc luận chiến sử dụng các ví dụ dân tộc học tương tự để bàn về lập trường của họ và cho rằng các phân chia thành quả có phần hời hợt. Như là một phản biện, cái mà chúng tôi thấy có liên quan đến cuộc tranh luận này, chúng tôi sẽ thảo luận về các mối liên hệ giữa tác tố và quyền lực và, bắt đầu từ khái niệm thói quen - habitus của Bourdieu, cùng với khái niệm quyền lực của Foucault, chúng tôi đề xuất một giải pháp thay thế cho toàn bộ cuộc tranh luận. Để kết luận, chúng tôi cho rằng trải nghiệm bản thân như một cá thể sống là một phần của bản chất con người, và các nhà khảo cổ nên xem xét lại tầm quan trọng về mặt xã hội, không gian và ý thức hệ của cái cá nhân và của những đời người hiện thân cá nhân trong quá khứ. Chúng tôi cho rằng điều này không đủ để chấp nhận khái niệm hiện đại về cái cá nhân, hay chủ nghĩa cá nhân, chừng nào chúng ta còn tạo cho các bối cảnh lịch sử và tiền sử có liên quan trở thành một phần của cái phương trình đó.

Các cá nhân: khái niệm và chiều kích

Bởi vì khoa học xã hội phương tây thường t
hật hành từ xã hội (cái lớn hơn) đến cá thể hoặc cá nhân (cái nhỏ hơn), nên hầu hết các nhà khảo cổ học cũng đã làm theo cách thức đó, và từ lâu đã bỏ qua mối quan hệ của cái cá nhân với xã hội, hoặc vị trí và các mối quan hệ của những con người riêng lẻ (persons) trong xã hội. Thay vào đó, họ có xu hướng coi các cá nhân hoặc những con người riêng lẻ theo thuật ngữ lý thuyết hệ thống chỉ là những bộ phận cấu thành nhỏ nhất của một hệ thống lớn hơn có động lực riêng và tuân theo logic riêng của nó, một cá nhân không thể tác động đến. Trong số ít các nhà khảo cổ học quá trình cố gắng tạo ra nhiều 'cá nhân' hơn nữa ấy chính là Hill & Gunn (1977), nhưng đức kiên ngoan của họ về bản chất hệ thống của hành vi cá nhân trong các bối cảnh xã hội, kinh tế và các bối cảnh khác rộng lớn hơn đã biến những con người riêng lẻ thành các hệ thống thu nhỏ (Thomas 2004a , 116-17 & 120-21). Tất nhiên, cũng có những ngoại lệ cho xu hướng này trong các khoa học xã hội: một số nhà khảo cổ học Darwinian, nhà sinh thái học tiến hóa và nhà sinh học hành vi, những người khác nữa, coi mỗi cá nhân - thường theo nghĩa ít lý thuyết hóa - như là từng viên gạch của lý thuyết xã hội (ví dụ Nettle 1997).

Schortman (1989), một nhà khảo cổ học
nỗ lực bơi ngược dòng triều quá trình luận, đã phát triển khái niệm ‘các bản sắc nổi bậttrong một bài viết sớm, sâu sắc đồng cảm với quan niệm về các cá nhân nhưng cuối cùng lại xử các phạm trù xã hội rộng lớn hơn – tính dân tộc và giai cấp. Các bản sắc nổi bật quy về các mối liên hệ xã hội hướng dẫn hành vi văn hóa, liên cá nhân và có vô số cái biểu đạt mang tính vật chất (Schortman 1989, 54-5). Một hàm ý quan trọng là các bản sắc như vậy thường là vô số, được viện dẫn trong các trường hợp khác nhau và vì nhiều lý do khác nhau trong suốt đời người. Trên thật tế, hầu hết mọi người phải thương lượng vô số bản sắc khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau qua ròng rã kinh nghiệm cuộc đời họ (Fisher & Di Paolo Loren 2003, 226).

Khi xem xét một loạt phương tiện vật chất - từ tượng đài, tượng nhỏ và bích họa đến biểu tượng
, các họa tiết trang trí đến đồ châu báu và trang sức - các nhà khảo cổ thường xuyên xử lý các vấn đề liên quan đến tư thế, cử chỉ, trang phục, bản năng giới tính, tính đại diện và kinh nghiệm. Tuy nhiên, chỉ mới gần đây, họ đã cố gắng (tái) tạo dựng các cá nhân, các bản sắc cá nhân và thân phận, hoặc gắn đắp các cơ thể cá nhân và kinh nghiệm cơ thể thật tế dựa vào các bằng chứng vật chất liên quan (ví dụ Meskell 1999; 2001; Gillespie 2001; Joyce 2003; Meskell & Joyce 2003). Các loại hình khảo cổ học hậu quá trình nói chung đều nhấn mạnh đến tính ý hướng của con người và đầu môi chót lưỡi (paid lip service to) về việc nghiên cứu cái cá nhân, nhưng trong thật tế, người thật’ (Johnson 1989, 189-90) vẫn thường mất dạng. Việc xuất trình ‘các cá nhân trong khảo cổ học, và đặc biệt là thời tiền sử, thường ngầm ẩn hơn là tường minh. Nghiêm trọng hơn nữa tình trạng bi quan khiến ít nhất một nhà khảo cổ học phải luận rằng: 'Mặc dù tất cả các tư liệu chúng ta xử lý đều đã được hoàn thành, sử dụng và loại bỏ bởi những con người cá nhân, nhưng chúng ta chỉ xem chúng như một phần của một tập thể, thường là một tập thể vượt lấn thời gian một khoảng đáng kể' (Frankel 2005, 24).

Việc tiếp cận cái cá nhân trong văn hóa vật chất rõ ràng đặt ra những thách thức thực sự đối với các nhà khảo cổ, không chỉ bởi vì khái niệm cái cá nhân là một thuật ngữ nặng ký, mang tính tình huống về phương diện lịch sử (Shanks & Tilley 1987, 62). Hồ sơ vật chất không thể 'chứng minh' rằng người thời tiền sử đã có quan niệm về bản thân họ với tư cách cá nhân, ngay cả khi các cảnh huống vật chất của các con người cá nhân được thể hiện trên các phương tiện như kiến ​​trúc, nghệ thuật trên đá, tượng đá, tượng đất sét, bích họa và gốm, hoặc được phản ánh trong tất cả mọi thứ từ công cụ đá (Dobres 2000), các di tích tưởng niệm (Brück 2001; Kirk 2006) đến di vật xương cốt (Robb 2002). Mặc dù các vấn đề thật tiễn và lý thuyết làm cho bất kỳ định nghĩa nào về các cá nhân phân tích hoặc các cá nhân thật tế trong bối cảnh tiền sử cũng trở nên phức tạp, nhưng chúng tôi vẫn tin rằng cần phải vượt qua các nỗ lực chỉ đơn giản để xác định các nhóm hoặc phạm trù xã hội hoặc chia tách chúng thành các phân loại đối lập nhị phân, hoặc để luận rằng chúng chỉ là những tái cấu trúc hiện đại được đúc theo hình ảnh của chính chúng ta (xem Latour 1993). Thay vào đó, chúng ta cần tìm cách giải quyết tốt hơn về các cá nhân cụ thể hoặc những con người riêng lẻ, là hiện thân của các đời người sự thể hiện của các tự ngã liên quan, không chỉ vì các cá nhân đã vẫn liên quan mật thiết đến việc duy trì và biến đổi các cấu trúc, giá trị và thật tiễn xã hội. Hơn nữa, như sẽ lập luận dưới đây, khái niệm thói quen - habitus không chỉ tạo ra một lực đòn bẩy để thừa nhận các khái niệm phi Tây phương về thân phận, mà nó còn giúp chúng ta hiểu rằng thân phận ‘phương Tây bản thân nó là đa nguyên: kết quả là, phân chia các khái niệm phương Tây và phi phương Tây về thân phận, hoặc về các cá nhân, về mặt khái niệm không thật hữu ích lắm.

Khi các nhà khảo cổ thảo luận về các khái niệm liên quan đến cái cá nhân hoặc con người riêng lẻ, thông thường họ sử dụng bốn thuật ngữ - nhân vật (person), cá nhân (individual), bản sắc (identity) và tự thân (self) (hoặc hơn, bản thân - selfhood). Bởi vì Meskell (1999, 32-3) và những người khác (ví dụ: La Fontaine 1985; Tarlow 2002, 26; Fowler 2004, 7-9) đã định nghĩa và mở rộng dựa trên các thuật ngữ này theo văn liệu nhân học, ở đây chúng tôi chỉ đơn giản tóm tắt lại.

Cá nhân, với tư cách là trọng tâm chính của nghiên cứu, là con người vật chất,
hữu tử, và đó chính là một khía cạnh mà các nhà khảo cổ học có bằng chứng trực tiếp. Nhân vật (the person) là một người đã được gán cho vị thế xã hội hay ‘bản thân’, tức là bất kỳ con người nào có thể được khái niệm hóa và đối xử như một con người riêng lẻ (Fowler 2004, 7). Trong thật tế, cá nhân tính - dựa trên quan niệm độc đáo, hiện tại của phương Tây - biến con người xã hội này thành một tác nhân xã hội hợp lý. Mỗi con người riêng lẻ, đến lượt mình, lại có một bản sắc, hay đúng hơn là một số bản sắc có thể hoặc không thể hội tụ và tạo thành nhân vật trong bối cảnh của cái xã hội tổng thể (the society) hoặc các nhóm mà cá nhân đó là một bộ phn. Bản (thân), cuối cùng, đại diện cho các thuộc tính được thu thập của một cá nhân riêng lẻ, ‘vị thế’ hay quan điểm mà từ đó một cá nhân riêng lẻ nhận thức được thế giới xung quanh, hành động theo hành động bên trong nó (Mauss 1985 [1938]). Fowler (2004, 7), phần lớn được Jones (2005) và Kirk (2006) đi theo, đã sử dụng thuật ngữ ‘thân phận’ thay vì bản thân, định nghĩa nó là một trạng thái của một người trong bất kỳ bối cảnh cụ thể nào. Ông cũng bổ sung thêm với tư cách là các đặc điểm chủ chốt của thân phận là ‘phân nhân tính’ (‘dividuality’) và ‘khả phân tính’ (partibility), bắt nguồn từ nghiên cứu của Strathern Way (1988) về những con người riêng lẻ (persons) đa hợp (composite), đa tạo (multiply-authored), khả phân (divisible) trong xã hội Cao Nguyên New Guinea (Fowler 2004, 8-9). Rõ ràng không có thuật ngữ nào trong số này là cố định, đặc biệt là trong những cách mà các nhà khảo cổ học đã sử dụng chúng. Hơn nữa, và trong mọi trường hợp, tất cả chúng đều được liên kết với nhau trong trải nghiệm sống, về phương diện cơ thể (Meskell 1999, 32).

Các nhà khảo cổ học cũng đã xử không dưới năm chiều kích hoặc khái niệm về con người riêng lẻ’, hay cái ‘cá nhân (Meskell 1999, 34-6). Nói ngắn gọn về những điều này là: i) khái niệm mang tính văn hóa, tự khắc ghi của cái ‘cá nhân, liên quan hiệu quả đến những cách thức những con người trong quá khứ có thể tự cảm thụ về bản thân; ii) các cơ thể cá nhân hoặc cá nhân ẩn danh, ví dụ như gặp trong tình trạng đã chết, và đặc biệt là bằng chứng về xương cốt hoặc được thể hiện bởi các bức tượng tiền sử; iii) các cá nhân được phân biệt thông qua các hành động của họ như các nghệ sĩ, nghệ nhân, hoặc thông qua việc sử dụng các phong cách công nghệ, trong thật tế nhận thức ban đầu về cái ‘cá nhân trong thời tiền sử theo đề xuất của Hill & Gunn (1977; xem Conkey & Hastorf 1990); iv) đại diện cho các cá nhân trong ảnh tượng học, kiến ​​trúc hoặc bằng chứng tư liệu, như tượng nhỏ, đài ng niệm, bích họa, danh sách thợ dệt hoặc thợ kim loại gắn liền với một cung điện, các nữ tu thời trung cổ; v) các cá nhân được biết đến trong lịch sử như các vị vua Sumer, dân làng Deir el Medina Ai Cập, các triết gia Hy Lạp hoặc các nhà châm biếm La Mã.

Hai
phạm trù cá nhân cuối cùng, từ các xã hội tiền sử hoặc tài liệu lịch sử, có vẻ như prima facie - thoạt nhìn thì dễ tiếp cận hơn và dễ kiểm chứng hơn, nhưng điều đó không loại trừ nghiên cứu về con người với tư cách cá nhân thông qua việc sử dụng các dữ liệu vật chất duy nhất. Hơn nữa, và có tầm quan trọng quyết định đối với cuộc thảo luận tiếp theo, ngoại trừ có thể có phạm trù cuối cùng (thứ năm), đối với chúng tôi, những con người như vậy - và thân phận, hoặc cá nhân tính của họ - không liên quan gì đến các định nghĩa đương đại về chủ nghĩa cá nhân (quyền riêng tư, các quan hệ và cảm xúc cá nhân) (Fowler 2004, 17), ít quyết định hơn với ‘các cá nhân tự trị’ tân tự do, Thatcherite, rất ám ảnh Thomas (2002a, 34-8) và tiêu biểu cho truyền thống nhân văn luận’ông quan tâm.

Cá nhân trong khảo cổ học

Việc định nghĩa nhận thức về các cá nhân luôn được coi là một thách thức trong thời tiền sử, và có lẽ rõ ràng nhất là trong các giai đoạn sớm nhất, ví dụ, việc tinh chỉnh các công cụ mảnh đá lửa thường cho phép các nhà khảo cổ học tái tạo các hành vi cụ thể của một hoặc nhiều người ghè đẽo công cụ. Tuy nhiên, từ các nền tảng và nhiều lĩnh vực địa lý hoặc thời gian tập trung khác nhau, nên các nhà tiền sử học ngày càng thảo luận về các chiều ch khác nhau của các cá nhân, những con người riêng lẻ các bản sắc như có thể nhìn thấy họ trong hồ sơ vật chất. McDermott (1996), chẳng hạn, đã lập luận rằng các bức tượng nữ Thượng kỳ Đá cũ châu Âu là những nỗ lực tự đại diện, trong khi Duhard (1990; 1993) lại cho rằng mỗi bức tượng có thể đại diện cho một cá nhân hoặc nhân vật thật thụ. Sinclair (2000) liên kết công nghệ đá Solutrean (Thượng kỳ Đá cũ) ở miền nam nước Pháp và Iberia với một tinh nghệ và ‘tính sắc xảo’ bộc lộ hành động mang tính công cụ của các cá nhân riêng rẽ trong việc sáng tạo và duy trì các bản sắc xã hội. Bằng cách kết hợp các nghiên cứu cảnh quan với một cách tiếp cận biểu cảm, Last (1998) đã xuất trình tiểu sử của các thi thể cá nhân được khai quật trong một nghĩa trang thời đại đồ đồng ở Camopedgeshire. Việc sử dụng các biểu tượng con người trong nghệ thuật Moche để xem xét các thi thể nam và nữ được xử lý theo nghi lễ khác nhau ra sao, Hill (2000) cho rằng nam giới (như các tù nhân) được thể hiện ẩn danh trong các nhóm, trong khi tất cả phụ nữ (là vật hiến tế) được thể hiện đơn lẻ, như là các cá nhân có thể đã đóng vai trò cụ thể trong các lễ thức văn hóa Moche. Jones (2005, 196-9) tóm tắt một cách hữu ích các giải thích thêm về những con người riêng lẻ và thân phận người tiền sử Trung Mỹ vùng Ande.

Trong nghiên cứu của cô về mộ táng các bức tượng người thời Đá mới Hy Lạp, Talalay (1993; 2000, 4-5) cho rằng việc sản xuất và trao đổi trong xã hội chủ yếu theo chủ nghĩa bình quân này bao gồm cả các cá thể nam và nữ, dù là thợ gốm, người bán hàng rong hay chăn gia súc. Trong những di tích còn lại của hơn 400 bộ xương từ thời Đá mới Italia, Robb (2002, 162-5) đã xác lập một hồ sơ ‘cốt sinh học’ (osteobiography) chi tiết về một cá thể nữ, từ khi sinh ra cho đến khi chết và tất cả những chấn thương mà cô phải chịu trong suốt cuộc đời. Renfrew (1994, 167-70; 2001, 135) đã liên kết những bước khởi đầu của kỹ nghệ luyện kim Thời đại đồ đồng Châu Âu và người Aegean với sự xuất hiện của các cá nhân riêng lẻ về phương diện xã hội, có thể xác định bằng hành động của họ là hiển nhiên trong các bài trí bộ vũ khí tượng trưng cho người chết (Châu Âu), hoặc bằng các loại hàng hóa uy tín cao (người Aegean). Trong một nghiên cứu liên quan, Treherne (1995) cho rằng các phẩm phục và vũ khí (nam giới) xuất hiện tại một thời điểm đặc biệt ở thời tiền sử châu Âu có liên quan đến ý thức cá nhân tính ngày càng tăng gắn lin với sự hưng thịnh và biến đổi của một nhóm chiến binh tinh hoa nam giới. Broodbank (2000, 170-74) cho rằng tỷ lệ cao của các mộ táng đơn, cùng với tần suất ngày càng tăng của các bức tượng được vẽ công phu cho thấy các hình dạng hoặc thuộc tính khác thường, báo hiệu mức độ rõ ràng ngày càng tăng của các cá nhân về phương diện khảo cổ học trong Thời sơ kỳ Đồ đồng của vùng văn hóa Cyclade. Frankel (1991, 247-9) và Cherry (1992) đã thảo luận về các nghệ sĩ cá nhân, tương tự trên đảo Síp thời tiền sử và thời đại Đồ đồng Aegean, trong khi việc tái tạo các hộp sọ từ một 'đền thờ' thuộc văn minh Minos Trung kỳ tại Archanes-Anemospilia trên đảo Crete cho thấy ‘… những cá nhân quan trọng và nổi bật, được đánh dấu bằng cả dáng vóc và tài sản của họ(Musgrave et al. 1994, 89) - một ví dụ tiêu biểu về các cơ thể cá nhân ẩn danh.

Từ góc độ lý thuyết hơn, Shanks & Tilley (1987, 62-3) đã suy luận rằng [c]ó lẽ chưa bao giờ một xã hội nào lại không thừa nhận chủ thể cá nhân bằng cách đặt tên hoặc có thể phân biệt và nhận thức các cơ thể vật chất’, và các nghiên cứu trường hợp về dân tộc học được đề cập bởi tất cả những người viết bài cho cuộc tranh luận đều ủng hộ quan điểm này. Tuy nhiên, Shanks & Tilley vẫn luôn thận trọng cho rằng các khái niệm thật sự về các cá nhân (nhân vật quan trọng) sẽ thay đổi từ xã hội này sang xã hội khác, còn khái niệm phương Tây hiện đại của chúng ta về kiểu nhân vật đó thì lạimột ý tưởng khá dị thường’. Trong phiên bản mới nhất của một cuốn sách giáo khoa kinh điển–bây giờ về lý thuyết và diễn giải trong khảo cổ học, Hodder & Hutson (2003, 121-4) cũng thừa nhận rằng khái niệm cái cá nhân là phức tạp, và chỉ thảo luận về nó trong khuôn khổ biểu cảm cái tự ngã mang tính quan hệ (xem thêm Hodder 2000, 25). Meskell (1999, 8-36), phát triển các lập luận được đưa ra trong các nghiên cứu trước đó (Meskell 1996; 1998; Knapp & Meskell 1997), và bàn dài về khái niệm cái cá nhân, cả trong các khoa học xã hội nói chung và trong khảo cổ học nói riêng. phác thảo những quỹ đạo lịch sử và sự cần thiết mang tính hữu thể trong nghiên cứu về tự ngãvì chúng liên quan đến sự xuất hiện của các cá nhân, các tác nhân xã hội và các bản sắc xã hội trong các hồ sơ tài liệu và hồ sơ vật chất (Meskell 2001, 188-95). Wilkie & Bartoy (2000, 755, 771) một mặt đã vạch ra ranh giới rõ ràng giữa cái cá nhân và ‘chủ nghĩa cá nhân, mặt khác cũng thừa nhận rằng mối quan hệ biện chứng giữa xã hội tổng thể cái cá nhân là rất quan trọng giúp nhận thức rõ hơn về những phức tạp của đời sống xã hội.

Thomas (2002a; 2004a, b) đã
kiên trì phê phán tất cả những nỗ lực loại này trong việc sử dụng khái niệm cá nhân đối với khảo cổ học, và không hài lòng với những phân biệt giữa quan niệm phương Tây về cái cá nhân có ưu quyền tự trịchủ nghĩa cá nhân mà nhiều học giả đưa ra, bởi vì ông thấy cả hai đều là những quan niệm phương Tây cụ thể, cho dù được tạo ra ở những thời điểm khác nhau (2004a, 139). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong đoạn văn được trích dẫn ở đoạn mở đầu của nghiên cứu này, Thomas (2004a, 147-8) đã tự chuyển từ khái niệm cái cá nhân sang ‘thân phận’ sang cái ‘cá nhân siêu việt, không phân biệt rõ ràng giữa các khái niệm đó. Ông cảm thấy rằng một số nghiên cứu tập trung vào khái niệm cái cá nhân trong xã hội, hoặc về mối quan hệ giữa cái cá nhân xã hội tổng thể, đã thống nhất các cấu trúc này như là các thật thể đặc biệt và tự trị trong đó các cá nhân được nhìn nhận dựa trên cấu trúc xã hội hoặc còn có một mối quan hệ với xã hội, thay vì xem cả cá nhân và xã hội là không thể tách rời (Thomas 2004b, 121).

Thomas đã đào sâu hơn hầu hết các nhà khảo cổ khác vào nền tảng triết học và khoa học xã hội về khái niệm cái cá nhân, và chúng tôi không tranh cãi về nỗ lực của ông nhằm thách thức khái niệm về bản chất phổ quát, cố định của con người. Thật vậy, với sự phổ biến của chủ nghĩa cá nhân phương pháp luận’[2] trong một số lĩnh vực xã hội học, lý thuyết kinh tế cổ điển hoặc tân tự do, và khảo cổ học Darwin, chúng tôi chấp nhận lập trường của ông chống lại nhân văn luận tự do. Chúng tôi cũng không có bất kỳ vấn đề nào trong việc tán thành quan điểm của ông cho rằng các nhà khảo cổ học không thể và không nên coi tất cả những người sống trong quá khứ đều là những cá nhân giống hệt như chúng ta (Thomas 2004a, 144). Tuy nhiên, dường như Thomas liên tục và thường xuyên tìm cách hỗ trợ cho lập trường của mình và sẽ không chịu bị phản bác (chẳng hạn, trong các đánh giá và nhận xét như: Thomas 2000b; 2002b). Và, trong khi chúng tôi quá ghê tởm loại chủ nghĩa tự do cánh hữu làm nền tảng cho các hệ tư tưởng tân bảo thủcác loại ‘tương lai học' (Fukuyama 2006), chúng ta cảm thấy Thomas không muốn nhìn xa hơn các cơ sở lập trường triết học và chính trị của mình, và thẳng thừng loại bỏ sự tồn tại của các cá nhân trong một loạt bối cảnh xã hội trên toàn thế giới, từ thời tiền sử sớm nhất đến các thời đại dựa trên cơ sở lịch sử. Kết quả là, ông đã khiển trách khá hời hợt một cơ sở tăng cường công trình ngoài Anh và châu Âu thời tiền sử, và đã không nắm bắt được hệ thuật ngữ và các định nghĩa mà các nhà khảo cổ học và nhân học đã sử dụng và phát triển trong các cuộc tranh luận liên quan đến cái cá nhân (xem phần trước). Mặc dù nhiều lần phủ nhận, nhưng dường như đối với chúng tôi cũng như với Wilkie & Bartoy (2000, 771), Thomas vẫn kiên trì đọc những người khác sử dụng thuật ngữ ‘cá nhân’ là ‘chủ nghĩa cá nhân. Đổi lại, đã khiến cả Thomas và những người khác (đặc biệt là Meskell) chấp nhận những quan điểm có phần cứng nhắc trong cuộc tranh luận về các cá nhân trong khảo cổ học và đánh mất cái nhìn tinh tế và nhiều sắc thái mà tất cả họ đều ủng hộ.

Với
đức kiên ngoan cho rằng cả hai khái niệm – các cá nhân và chủ nghĩa cá nhân - cấu thành cụ thể và thật sự các cấu trúc phương Tây, mặc dù có các giai đoạn và bối cảnh khác nhau, Thomas không thể phủ nhận sự bất đồng này. Do đó, chúng tôi gợi ý về yêu sách của ông, kiên định rằng bất kỳ sự đánh giá cao nào về ‘các cá nhân thì đều là một lập trường riêng của phương Tây, là tâm điểm của cuộc tranh cãi này. Tuy nhiên, trước khi chúng ta đào sâu hơn vào các căn nguyên lý thuyết và ý nghĩa trong lập trường của ông, thì trước tiên chúng tôi muốn phác thảo những phác thảo về cuộc tranh luận này trong khảo cổ học.
____________________________________________

Còn nữa….

Nguồn: Knapp, A.B. and van Dommelen, P. (2008) Past practices: rethinking individuals and agents in archaeology. Cambridge Archaeological Journal, 18 (1). pp. 15-34. ISSN 0959-7743

Tác giả:

A. Bernard Knapp là Giáo sư danh dự về Khảo cổ học Địa Trung Hải thuộc Khoa Khảo cổ học, Đại học Glasgow và Nghiên cứu viên danh dự, Viện nghiên cứu Khảo cổ học Cyprus American, Nicosia. Ông đồng biên tập Tạp chí Khảo cổ Địa Trung Hải với John F. Cherry và Peter van Dommelen và là Tổng biên tập của loạt sách chuyên khảo về Khảo cổ Địa Trung Hải. Ông là tác giả và biên tập viên của một số cuốn sách, bao gồm, gần đây nhất là Đi biểnNgười đi biển trong Thời đại Đồ đồng Đông Địa Trung Hải (Leiden: Sidestone Press, 2018).

Peter van Dommelen, sinh năm 1966, là một nhà khảo cổ học và học giả người Hà Lan, chuyên nghiên cứu về khảo cổ học của Tây Địa Trung Hải và khảo cổ học Phoenician-Punic.  Kể từ tháng 7 năm 2015, ông là Giám đốc của Viện Khảo cổ học Joukowsky và Thế giới Cổ đại tại Đại học Brown. Ông học cổ văn và khảo cổ học tại Đại học Leiden ở Hà Lan. Ông đạt được bằng Tiến sĩ năm 1998, và được bổ nhiệm làm giáo sư khảo cổ Địa Trung Hải vào năm 2008. Năm 2012, van Dommelen chuyển đến Đại học Brown ở Hoa Kỳ, là Giáo sư Khảo cổ học và Giáo sư Nhân học. Vào tháng 7 năm 2015, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc của Viện Khảo cổ học và Thế giới cổ đại Joukowsky tại Brown.

Ghi chú của người dịch:

[1] Personhood: là thân phận (vị thế, tình trạng) làm người, là một chủ đề gây tranh cãi trong triết học và pháp luật và gắn chặt với các khái niệm pháp lý và chính trị về quyền công dân, quyền bình đẳng và tự do. Theo luật, chỉ có một thể nhân hoặc nhân cách pháp lý có quyền, được bảo hộ, có các đặc quyền, các nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý. Thân phận tiếp tục là một chủ đề tranh luận quốc tế và đã bị đặt vấn đề phê phán trong việc bãi bỏ chế độ nô lệ con người và không phải người, trong thần học, trong các cuộc tranh luận về phá thai và quyền của thai nhi, và/hoặc quyền sinh sản, trong hoạt động bảo vệ quyền động vật, trong hữu thể học, trong lý thuyết đạo đức, và trong các cuộc tranh luận về thân phận tập thể và sự khởi đầu của thân phận loài người.

[2] Methodological Individualism: Chủ nghĩa cá nhân phương pháp luận thực sự được Joseph Schumpeter, sinh viên của Max Weber tạo ra trong tác phẩm Das Wesen und der Hauptinhalt der theoryetischen Nationalökonomie, (Bản chất của Lý thuyết Kinh tế Quốc gia) Leipzig, Duncker & Humblot, 1908. Tuy nhiên, việc xây dựng lý thuyết cho học thuyết này là do Weber và Schumpeter sử dụng thuật ngữ này như một cách để đề cập đến quan điểm Weberian. Trong tác phẩm Kinh tế và Xã hội, Weber thiết lập quy tắc trung tâm của chủ nghĩa cá nhân phương pháp luận theo cách sau: Khi thảo luận về các hiện tượng xã hội, chúng ta thường nói về nhiều tập thể xã hội khác nhau, như nhà nước, hiệp hội, tập đoàn kinh doanh, các tổ chức, như thể họ là những con người cá nhân. Học thuyết về chủ nghĩa cá nhân phương pháp luận quy định rằng, trong công tác xã hội học, các tập thể đó phải được coi là kết quả và phương thức tổ chức các hành vi cụ thể của các cá nhân, vì những con người này có thể được coi là các tác nhân trong một quá trình hành động có thể hiểu được một cách chủ quan. Đối với Weber, việc cam kết với chủ nghĩa cá nhân phương pháp luận liên quan chặt chẽ với cam kết đối với các mô thức diễn giải trong xã hội học. Lý do cho hành động cá nhân đặc quyền trong giải thích xã hội học là chỉ có hành động mới “thể hiểu được một cách chủ quan.(Weber 1922, 1968: 13)

References

Anderson, P., (1984). Modernity and revolution. In New Left Review I/144, 96–113.
Bachand, H., R.A. Joyce & J.A. Hendon, (2003). Bodies moving in space: ancient Mesoamerican human sculpture and embodiment. In Cambridge Archaeological Journal 13(2), 238–47.
Bakhtin, M.M., (1981). The Dialogic Imagination: Four Essays. Austin (TX): University of Texas Press.
Barrett, J.C., (2001). Agency, the duality of structure, and the problem of the archaeological record, in Archaeological Theory Today, ed. I. Hodder. Cambridge: Polity Press, 141–64.
Bentley, G.C., (1987). Ethnicity and practice. Comparative Studies in Society and History 29, 24–55.
Berman, M., (1982). All that is Solid Melts into Air: the Experience of Modernity. New York (NY): Simon & Schuster.
Bourdieu, P., (1977). Outline of a Theory of Practice. Cambridge: Cambridge University Press.
Bourdieu, P., (1990). The Logic of Practice. Cambridge: Polity Press.
Broodbank, C., (2000). An Island Archaeology of the Early Cyclades. Cambridge: Cambridge University Press.
Brück, J., (2001). Monuments, power and personhood in the British Neolithic. In Journal of the Royal Anthropological Institute 7, 649–67.
Busby, C., (1997). Permeable and partible persons: a comparative analysis of gender and body in south India and Melanesia. Journal of the Royal Anthropological Institute 3, 261–78.
Butler, J., (1997). Excitable Speech: a Politics of the Performative. London: Routledge.
Chapman, J., 2000. Fragmentation in Archaeology. London: Routledge.
Cheater, A., 1999. Power in the postmodern era, in The Anthropology of Power, ed. A. Cheater. London: Routledge, 1–12.
Cherry, J.F., (1992). Beazley in the Bronze Age? Reflections on attribution studies in Aegean prehistory, in EIKON, Aegean Bronze Age Iconography: Shaping a Methodology, eds. R. Laffineur & J.L. Crowley. (Aegaeum 8.) Liège: Université de Liège, 123–44.
Comaroff, J.L. & J. Comaroff, (1992). Ethnography and the Historical Imagination. Boulder (CO): Westview Press.
Conkey, M.W. & C.A. Hastorf (eds.), (1990). The Uses of Style in Archaeology. Cambridge: Cambridge University Press.
Cooper, J.S., (1981). Gilgamesh and Agga: a review article. Journal of Cuneiform Studies 33, 224–41.
David, B., (2005). Review of J. Thomas, Archaeology and Modernity. European Journal of Archaeology 8, 193–4.
Dietler, M. & I. Herbich, (1998). Habitus, techniques, style: an integrated approach to the social understanding of material culture and boundaries, in The Archaeology of Social Boundaries, ed. M.T. Stark. Washington (DC): Smithsonian Institution Press, 232–63.
Dobres, M. A., (2000). Technology and Social Agency: Outlining a Practice Framework for Archaeology. Oxford: Blackwell.
Dobres, M. A. & J. Robb (eds.), (2000). Agency in Archaeology. London: Routledge.
Duhard, J. P., (1990). Le corps féminin et son langage in dans l’art paléolithique. Oxford Journal of Archaeology 9, 241–53.
Duhard, J. P., (1993). Upper Paleolithic figures as a reflection of human morphology and social organisation. Antiquity 67, 83–91.
Fabian, J., (1994). Ethnographic objectivity revisited: from rigor to vigor, in Rethinking Objectivity, ed. A. Megill. Durham (NC): Duke University Press, 81–108.
Fisher, G. & D. Di Paolo Loren, (2003). Embodying identity in archaeology: introduction. Cambridge Archaeological Journal 13(2), 225–30.
Foucault, M., (1978). The History of Sexuality: an Introduction. London: Peregrine.
Foucault, M., (1979). Governmentality. Ideology and Consciousness 6, 5–21.
Foucault, M., (1982). The subject and power, in Michel Foucault: Beyond Structuralism and Hermeneutics, eds. H. Dreyfus & P. Rabinow. Brighton: Harvester, 208–26.
Foucault, M., (1988). Social security, in Michel Foucault: Politics, Philosophy, Culture, ed. L.D. Kritzman. London: Routledge, 159–77.
Fowler, C., (2004). The Archaeology of Personhood. London: Routledge.
Frankel, D., (1991). Ceramic variability: measurement and meaning, in Cypriot Ceramics: Reading the Prehistoric Record, eds. J.A. Barlow, D. Bolger & B. Kling. (University Museum Monograph 74.) Philadelphia (PA): University of Pennsylvania Museum, 241–52.
Frankel, D., (2005). Becoming Bronze Age: acculturation and enculturation in third millennium bc Cyprus, in Archaeological Perspectives on the Transmission and Transformation of Culture in the Eastern Mediterranean, ed. J. Clarke. Oxford: Oxbow, 18–24.
Fukuyama, F., (2006). After the Neocons: America at the Crossroads. New Haven (CT): Yale University Press.
Gardner A., (2004a). Introduction: social agency, power and being human, in Agency Uncovered: Archaeological Perspectives on Social Agency, Power and Being Human, ed. A. Gardner. London: UCL Press, 1–15.
Gardner A., (2004b). Agency and community in 4th century Britain: developing the structurationist project, in Agency Uncovered: Archaeological Perspectives on Social Agency, Power and Being Human, ed. A. Gardner. London: UCL Press, 33–49.
Gerratana, V., (1975). Antonio Gramsci: quaderni del carcere. Turin: Einaudi.
Gillespie, S.D., (2001). Personhood, agency, and mortuary ritual: a case study from the ancient Maya. In Journal of Anthropological Archaeology 20, 73–112.
Gosden, C., (2004). Archaeology and Colonialism: Culture Contact from 5000 bc to the Present. Cambridge: Cambridge University Press.
Hall, M., (2000). Archaeology and the Modern World: Colonial Transcripts in South Africa and Chesapeake. London: Routledge.
Hamilakis, Y., M. Pluciennik & S. Tarlow (eds.), (2002). Thinking through the Body: Archaeologies of Corporeality. New York (NY): Kluwer/Plenum.
Harvey, D., (1973). Social Justice and the City. London: Arnold.
Harvey, D., (2000). Spaces of Hope. Berkeley (CA): University of California Press.
Hayden, B., (2001). Richman, poorman, beggarman, chief: the dynamics of social inequality, in Archaeology at the Millennium: a Sourcebook, eds. G. Feinman & T.D. Price. Dordrecht: Kluwer/Plenum, 231–72.
Heidegger, M., (1993). Letter on humanism, in Martin Heidegger: Basic Writings, ed. D.F. Krell. 2nd edition. London: Routledge, 213–65.
Hill, E., (2000). The embodied sacrifice.In Cambridge Archaeological Journal 10(2), 317–26.
Hill, J.N. & J. Gunn (eds.), (1977). The Individual in Prehistory: Studies of Variability in Style in Prehistoric Technologies. New York (NY): Academic Press.
Hoare, Q. & G. Nowell Smith, (1971). Selection from the Prison Notebooks of Antonio Gramsci. London: Lawrence & Wishart.
Hodder, I., (1999). The Archaeological Process. Oxford: Blackwell.
Hodder, I., (2000). Agency and individuals in long-term process, in Agency in Archaeology, eds. M.-A. Dobres & J. Robb. London: Routledge, 21–33.
Hodder, I., (2003). Agency and individuals in long-term processes, in Archaeology Beyond Dialogue, by I. Hodder. Salt Lake City (UT): University of Utah Press, 83–92.
Hodder, I., (2004). The ‘social’ in archaeological theory: an historical and contemporary perspective, in A Companion to Social Archaeology, eds. L. Meskell & R. Preucel. Oxford: Blackwell, 23–42.
Hodder, I. & S. Hutson, (2003). Reading the Past: Current Approaches to Interpretation in Archaeology. 3rd edition. Cambridge: Cambridge University Press.
Johnson, M.H., (1989). Conceptions of agency in archaeological interpretation. In Journal of Anthropological Archaeology 8, 189–211.
Jones, A., (2005). Lives in fragments? Personhood and the European Neolithic. In Journal of Social Archaeology 5, 193–224.
Joyce, R.A., (2000). Gender and Power in Prehispanic Mesoamerica. Austin (TX): University of Texas Press.
Joyce, R.A., (2003). Making something of herself: embodiment in life and death at Playa de los Muertos, Honduras. In Cambridge Archaeological Journal 13(2), 248–61.
Kirk, T., (2006). Materiality, personhood and monumentality in Early Neolithic Britain. In Cambridge Archaeological Journal 16(3), 333–47.
Knapp, A.B., (1998). Who’s come a long way baby? Masculinist approaches to a gendered archaeology. In Archaeological Dialogues 5, 91–125.
Knapp, A.B. & L.M. Meskell, (1997). Bodies of evidence on prehistoric Cyprus. In Cambridge Archaeological Journal 7(2), 183–204.
Kristiansen, K., (2004). Genes versus agents: a discussion of the widening theoretical gap in archaeology. In Archaeological Dialogues 11, 77–132.
La Fontaine, J.S., (1985). Person and individual: some anthropological reflections, in The Category of the Person, eds. M. Carrithers, S. Collins & S. Lukes. Cambridge: Cambridge University Press, 123–40.
Last, J., (1998). Books of life: biography and memory in a Bronze Age barrow. In Oxford Journal of Archaeology 17, 43–53.
Latour, B., (1993). We Have Never Been Modern. Cambridge (MA): Harvard University Press.
Li Puma, E., (1998). Modernity and forms of personhood in Melanesia, in Bodies and Persons: Comparative Perspectives from Africa and Melanesia, eds. M. Lambek & A. Strathern. Cambridge: Cambridge University Press, 53–79.
Lukes, S., (1973). Individualism. Oxford: Blackwell.
Mauss, M., (1985 [1938]). A category of the human mind: the notion of person; the notion of self, in The Category of the Person, eds. M. Carrithers, S. Collins & S. Lukes. Cambridge: Cambridge University Press, 1–25.
McDermott, L., (1996). Self-representation in Upper Paleolithic female figurines. In Current Anthropology 37, 227–75.
McGuire, R. & L. Wurst, (2002). Struggling with the past. In International Journal of Historical Archaeology 6, 85–94.
McNay, L., (1994). Foucault: a Critical Introduction. New York (NY): Continuum.
Meskell, L., (1996). The somatization of archaeology: institutions, discourses, corporeality. In Norwegian Archaeological Review 29, 1–16.
Meskell, L., (1998). An archaeology of social relations in an Egyptian village. In Journal of Archaeological Method and Theory 5, 209–43.
Meskell, L., (1999). Archaeologies of Social Life: Age, Sex, Class Et Cetera in Ancient Egypt. Oxford: Blackwell.
Meskell, L., (2001). Archaeologies of identity, in Archaeological Theory Today, ed. I. Hodder. Cambridge: Polity Press, 187–213.
Meskell, L. & R.A. Joyce, (2003). Embodied Lives: Figuring Ancient Maya and Egyptian Experience. London: Routledge.
Mignolo, W., (2000). Local Histories/Global Designs: Coloniality, Subaltern Knowledges, and Border Thinking. Princeton (NJ): Princeton University Press.
Miller, D., (1994). Modernity, an Ethnographic Approach: Dualism and Mass Consumption in Trinidad. Oxford: Berg.
Mitchell, T., (1990). Everyday metaphors of power. In Theory and Society 19, 545–77.
Moore, H., (1990). Paul Ricoeur: action, meaning and text, in Reading Material Culture, ed. C. Tilley. Oxford: Blackwell, 85–120.
Moore, H., (1994). A Passion for Difference. Cambridge: Polity Press.
Moore, H., (1999). Anthropological theory at the turn of the century, in Anthropological Theory Today, ed. H. Moore. Cambridge: Polity Press, 1–23.
Moore, H., (2000). Ethics and ontology: why agents and agency matter, in Agency in Archaeology, eds. M.-A. Dobres & J. Robb. London: Routledge, 259–63.
Musgrave, J., R.A.H. Neave, A.J.N.W. Prag, E. Sakellarakis & J.A. Sakellarakis, (1994). The priest and priestess from Archanes-Anemospilia: reconstructing Minoan faces. In Annual of the British School at Athens 89, 89–100.
Nettle, D., (1997). On the status of methodological individualism. In Current Anthropology 38, 283–6.
Ong, A., (1996). Anthropology, China and modernities: the geopolitics of cultural knowledge, in The Future of Anthropological Knowledge, ed. H. Moore. London: Routledge, 60–92.
Orser, C., (2003). The archaeology of high culture and its discontents. In Reviews in Anthropology 32, 125–39.
Ortner, S., (2001). Specifying agency: the Comaroffs and their critics. In Interventions: International Journal of Postcolonial Studies 3, 76–84.
Ortner S., (2006). Anthropology and Social Theory: Culture, Power and the Acting Subject. Durham (NC): Duke University Press.
Pluciennik, M., (2007). Review of Thomas 2004a. In Cambridge Archaeological Journal 17(2), 238–40.
Renfrew, C., (1972). The Emergence of Civilization: the Cyclades and the Aegean in the Third Millennium bc. London: Methuen.
Renfrew, C., (1994). The identity of Europe in prehistoric archaeology. In Journal of European Archaeology 2, 153–73.
Renfrew, C., (2001). Symbol before concept: material engagement and the early development of society, in Archaeological Theory Today, ed. I. Hodder. Cambridge: Polity Press, 122–40.
Robb, J., (2002). Time and biography: osteobiography of the Italian Neolithic lifespan, in Thinking through the Body: Archaeologies of Corporeality, eds. Y. Hamilakis, M. Pluciennik & S. Tarlow. New York (NY): Kluwer/ Plenum, 137–52.
Rowlands, M., (1995). Inconsistent temporalities in a nationspace, in Worlds Apart: Modernity through the Prism of the Local, ed. D. Miller. London: Routledge, 23–42.
Sahlins, M., (1993). Goodbye to tristes tropes: ethnography in the context of modern world history. In Journal of Modern History 65, 1–25.
Schmidt, P. & T. Patterson, (1995). Introduction: from constructing to making alternative histories, in Making Alternative Histories: the Practice of Archaeology and History in non-Western Settings, eds. P. Schmidt & T. Patterson. Santa Fe (NM): School of American Research Press, 1–24.
Schortman, E.M., (1989). Interregional interactions in prehistory: the need for a new perspective. In American Antiquity 54, 52–65.
Shanks, M. & C. Tilley, (1982). Ideology, symbolic power and ritual communication: a reinterpretation of Neolithic morturary practices, in Symbolic and Structural Archaeology, ed. I. Hodder. Cambridge: Cambridge University Press, 129–54.
Shanks, M. & C. Tilley, (1987). Social Theory and Archaeology. Cambridge: Polity Press.
Silliman, S., (2001). Agency, practical politics and the archaeology of culture contact. In Journal of Social Archaeology 1, 190–209.
Sinclair, A., (2000). Constellations of knowledge: human agency and material affordance in lithic technology, in Agency in Archaeology, eds. M.-A. Dobres & J. Robb. London: Routledge, 196–212.
Snow, D.R., (2002). Individuals, in Darwin and Archaeology: a Handbook of Key Concepts, eds. J.P. Hart & J.E. Terrell. Westport (CT): Bergin & Garvey, 161–81.
Strathern, M., (1988). The Gender of the Gift: Problems with Women and Problems with Society in Melanesia. Berkeley (CA): University of California Press.
Sweely, T.L. (ed.), (1999). Manifesting Power: Gender and the Interpretation of Power in Archaeology. Routledge: London.
Talalay, L.E., (1993). Deities, Dolls, and Devices: Neolithic Figurines from Franchthi Cave, Greece. (Excavations at Franchthi Cave 9.) Bloomington (IN): Indiana University Press.
Talalay, L.E., (2000). Archaeological Ms.conceptions: contemplating gender and the Greek Neolithic, in Representations of Gender from Prehistory to the Present, eds. M. Donald & L. Hurcombe. London: Macmillan, 3–16.
Tarlow, S., (1999). Bereavement and Commemoration: an Archaeology of Mortality. Oxford: Blackwell.
Tarlow, S., (2002). Bodies, selves and individuals: introduction, in Thinking through the Body: Archaeologies of Corporeality, eds. Y. Hamilakis, M. Pluciennik & S. Tarlow. New York (NY): Kluwer/Plenum, 23–7.
Thomas, J., (1996). Time, Culture and Identity. London: Routledge.
Thomas, J., (2000a). Reconfiguring the social, reconfiguring the material, in Social Theory in Archaeology, ed. M. Schiffer. Salt Lake City (UT): University of Utah Press, 143–55.
Thomas, J., (2000b). Response to Wilkie & Bartoy. In Current Anthropology 41, 770.
Thomas, J., (2002a). Archaeology’s humanism and the materiality of the body, in Thinking through the Body: Archaeologies of Corporeality, eds. Y. Hamilakis, M. Pluciennik & S. Tarlow. New York (NY): Kluwer/Plenum, 29–45.
Thomas,J., (2002b). Materialism and power. Cambridge Archaeological Journal 12(1), 140–42.
Thomas, J., (2004a). Archaeology and Modernity. London: Routledge.
Thomas, J., (2004b). The Great Dark Book: archaeology, experience, and interpretation, in A Companion to Archaeology, ed. J. Bintliff. Oxford: Blackwell, 21–36.
Treherne, P., (1995). The warrior’s beauty: the masculine body and self-identity in Bronze Age Europe. In Journal of European Archaeology 3, 105–44.
Walker, C.B.F., (1987). Cuneiform. London: British Museum.

Weber, Max, (1922, 1968). Economy and Society, Guenther Roth and Claus Wittich (eds.), Berkeley: University of California Press, 1968.

Wilkie, L.A. & K.M. Bartoy, (2000). A critical archaeology revisited. In Current Anthropology 41, 747–77.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét