Nicolas Bencherki
Người dịch: Hà Hữu Nga
Tóm tắt
Lý thuyết mạng-tác nhân (ANT: Actor–network theory) ra đời vào cuối những năm 1970 như một nỗ lực lý giải hoạt động khoa học mà không phân biệt trước giữa cái gọi là khía cạnh xã hội và kỹ thuật của nó. Khái niệm mạng-tác nhân thể hiện ý tưởng rằng để bất kỳ tác nhân nào hành động, nhiều tác nhân khác cũng phải hành động theo. Nói cách khác, hành động được chia sẻ với rất nhiều người và vạn vật – bởi vì, thực sự, vạn vật đều dự phần vào cuộc sống tập thể của chúng ta. Do đó, các tác nhân, dù là cá nhân hay tập thể, dù là con người hay phi-nhân, đều là một bí ẩn mà cấu thành của chúng cần được giải thích; chúng hoàn toàn không phải là điểm khởi đầu hiển nhiên của hành động. Một vài tiền đề đó đã có tác động đáng kể đến một số học giả về giao tiếp có tổ chức, đặc biệt là những ai quan tâm đến các mạng và quan hệ đối tác liên-tổ chức, trong các vấn đề về agency tác tố, hoặc khả năng giao tiếp cấu thành nên các tổ chức.
Giao tiếp tổ chức chịu ảnh hưởng của nhiều quan điểm lý thuyết và truyền thống nghiên cứu. Trong số đó, ban đầu nhiều quan điểm không nhằm mục đích nghiên cứu về tổ chức, giao tiếp, hoặc mối quan hệ của chúng. Tương tự như vậy, lý thuyết mạng-tác nhân (ANT), vốn đang ngày càng được quan tâm, đặc biệt là trong giới học giả nghiên cứu về sức mạnh cấu thành của giao tiếp, ban đầu được coi là một lý thuyết nghiên cứu khoa học và công việc của các nhà khoa học. Trên thực tế, [tr.2] gần đây, các học giả mạng-tác nhân đã thừa nhận tầm quan trọng của giao tiếp và tính liên quan về mặt tổ chức của lý thuyết của họ. Tuy nhiên, việc thiếu chú ý thực sự đối với các quá trình giao tiếp không ngăn cản các nhà nghiên cứu giao tiếp tổ chức tiếp thu những hiểu biết từ ANT. Ví dụ, trong đó một số người đang tiếp tục khám phá ý tưởng của ANT cho rằng các thực thể xã hội không tồn tại trước hành động chung của vô số thực thể tạo ra chúng và cách thức mà điều đó mở ra những hướng đi mới cho nghiên cứu giao tiếp có tổ chức. Ý tưởng này, cùng với sự phụ thuộc vào phương pháp luận dân tộc học tỉ mỉ, đã biến ANT thành một lăng kính mạnh mẽ để nghiên cứu vai trò của giao tiếp trong việc cấu thành các tổ chức và các hiện tượng khác bên trong và xung quanh tổ chức. Sau phần tổng quan về các ý tưởng cốt lõi của ANT, bài viết sẽ xem xét một số ứng dụng của lý thuyết này trong nghiên cứu giao tiếp nói chung, trước khi tập trung vào ba ứng dụng cụ thể của ANT trong giao tiếp có tổ chức: mạng, tác tố phi-nhân, và mối liên hệ giữa giao tiếp và tổ chức. Bài viết kết thúc bằng việc thảo luận về một số phê phán phổ biến nhất về ANT và các hướng nghiên cứu tương lai trong lĩnh vực này.
Các nguyên lý cốt lõi của ANT
Việc phác thảo lý thuyết mạng-tác nhân là rất khó, vì nó đã có nhiều hình thức khác nhau trong suốt nhiều thập kỷ. Mặc dù hiện nay thường được sử dụng như một lý thuyết xã hội học thay thế, ANT ban đầu nổi lên như một phương pháp tiếp cận nghiên cứu khoa học và hoạt động khoa học trong cuốn Laboratory Life (1979) của Latour và Woolgar, và sau đó là cuốn Science in Action (1987) của Latour. Kể từ đó, ANT gắn liền với việc phê phán xã hội học truyền thống, với các công trình về xã hội học kinh tế, lý thuyết môi trường và triết học tri thức. Một điểm chung xuyên suốt tất cả các phiên bản của ANT là khẳng định cho rằng bất kỳ tác nhân đơn lẻ nào cũng là một mạng gồm nhiều tác nhân khác cũng hoạt động như vậy. ANT mượn thuật ngữ actant hành tác nhân từ nhà lý thuyết tự sự người Pháp A. J. Greimas, qua đó nhấn mạnh thực tế rằng khả năng hành động không phải là một đặc điểm bản chất của một người/sự/vật (là một con người, một vật thể, hay bất cứ thứ gì khác), mà là một đặc điểm quan hệ; nói cách khác, actant là bất cứ điều gì tạo nên sự khác biệt trong một tình huống. Mặc dù [tr.3] nhiều người hiểu sai lý thuyết mạng-tác nhân là một lý thuyết về các tác nhân hoặc những kẻ hành tác được khảm vào một mạng lưới, nhưng thực tế nó là một lý thuyết về những hành tác nhân với tư cách là các mạng lưới.
Sự phát triển của lý thuyết mạng-tác nhân chịu ảnh hưởng bởi lời kêu gọi của nhà xã hội học tri thức người Anh David Bloor về một “chương trình mạnh” trong việc nghiên cứu khoa học và tri thức, theo đó thất bại và thành công nên được nghiên cứu theo cùng một thuật ngữ, thay vì cho rằng thành công khoa học là do tiến bộ khoa học nội tại trong khi thất bại được giải thích bởi các yếu tố “xã hội”. Đối với các học giả ANT, điều này được hiểu là lời kêu gọi tránh đi tắt đón đầu thông qua các giải thích xã hội; nếu bất kỳ yếu tố nào như vậy đóng vai trò trong thành công hay thất bại của một dự án khoa học, thì tác động đó phải được chứng minh cụ thể trong công việc của các nhà khoa học và kỹ sư. Đồng nghiệp của Latour tại Trường Mỏ Paris, Michel Callon, lần đầu tiên đưa ra khái niệm mạng-tác nhân khi vào những năm 1980 ông nghiên cứu một dự án nhằm chế tạo chiếc ô tô điện đầu tiên của Pháp. Dự án cuối cùng đã bị hủy bỏ, và Callon đã sử dụng thuật ngữ mạng-tác nhân để giải thích cho vô số yếu tố không đồng nhất (giá dầu, lo ngại chính trị, vấn đề kỹ thuật, v.v.) không thể thống nhất theo hướng có lợi cho dự án. Theo nghĩa đó, xe điện chỉ có thể là một hành tác nhân tự thân khi nó tập hợp và ổn định nhiều hành động và lợi ích khác nhau cho phép nó ra đời. Do đó, khái niệm mạng-tác nhân thu hút sự chú ý vào hiện trạng thực tế là một hành tác nhân tưởng chừng như thống nhất và mạch lạc thì thực chất lại luôn luôn là sự ổn định tạm thời của những hành tác nhân không đồng nhất tạo nên nó. Nói cách khác, hành động luôn được trung gian hóa: khả năng hành động của một hành tác nhân nằm trong hành động của những hành tác nhân khác. Như câu châm ngôn nổi tiếng của Latour (1996): “Khi một kẻ hành động, những kẻ khác cũng hành động” (trang 237).
Một đặc điểm chính của lý thuyết mạng-tác nhân là agnosticism tính bất khả tri của nó đối với bản chất của sự vật, con người, nguyên tắc, v.v., góp phần tạo nên cấu trúc và tác tố của hành tác nhân. Các tác giả của ANT thường xuyên sử dụng từ heterogeneity “tính dị biệt” để chỉ ra rằng các nhà nghiên cứu phải cẩn thận không đưa ra giả định về bản chất và đồng nhất tính của con người và sự vật có thể dự phần trong bất kỳ hành động hoặc tình huống nào, hoặc về cái gọi là “tính ý hướng” của chúng/họ. Thật vậy, những hiện hữu phi-nhân (nonhumans có lẽ là khái niệm đặc trưng của lý thuyết này) cũng tạo nên sự khác biệt, và ANT ghi nhận bất kỳ hiện hữu nào, bất kể bản chất của nó, có tác động đến tình huống đang nghiên cứu. Tính bất khả tri của ANT là một sự mở rộng của khái niệm đối xứng, theo nghĩa là những gì [tr.4] mang tính kỹ thuật và tự nhiên nên được giải thích bằng cùng một khuôn khổ như những gì mang tính xã hội hoặc văn hóa.
Trên thực tế, điều này có nghĩa là các nhà nghiên cứu nên hạn chế việc thay đổi lý thuyết tùy theo khía cạnh của hiện thực mà chúng mô tả; thay vào đó, họ nên “theo sát các tác nhân”, mà thực tại của chúng/họ bao gồm sự lai tạo không ngừng của cái gọi là các yếu tố xã hội, kỹ thuật, tự nhiên và các yếu tố khác. Nói cách khác, công việc “thanh lọc” thực tại thành những phạm trù rõ ràng là công việc của (một số) nhà nghiên cứu, chứ không phải của những người thực sự tiếp xúc với thế giới hàng ngày. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, mạng-tác nhân dường như đơn giản và thống nhất; hoặc, theo biệt ngữ của lý thuyết này, chúng bị đóng khung trong hộp đen. Cách diễn đạt này thể hiện ý tưởng rằng chúng ta trải nghiệm nhiều vật thể – và cả con người nữa – nhưng chúng ta chỉ tương tác chỉ ở mức độ chúng cung cấp cho chúng ta một số kết quả mong đợi. Ví dụ, màn hình máy tính hiển thị tệp xử lý văn bản của tôi; người phụ nữ ở cửa hàng tạp hóa quét mặt hàng tôi muốn mua; đèn đường chuyển sang màu xanh sau một khoảng thời khắc ngắn ngủi. Nếu không như vậy thì chúng trở nên mờ đục đối với chúng ta: chỉ khi có sự cố, chúng ta mới nhận thức được mạng lưới rộng lớn gồm các bộ phận điện tử, dây điện, bóng đèn, đào tạo, cảm xúc, v.v., tham gia vào sự vận hành trơn tru của “mọi thứ” tưởng chừng như đơn giản đó. ANT nhấn mạnh rằng sự liền mạch và trơn tru hiển hiện ấy là kết quả của những tương tác phức tạp và rất nhiều công sức, chứ không phải là trạng thái tự nhiên của sự thật. Đối với ANT, quá trình mở lại hộp đen không chỉ là một vấn đề thực tế mà các tác nhân phải đối mặt – ví dụ như khi thiểu số nhân viên cố gắng chống lại các phương pháp và công cụ quản lý đã được thiết lập từ lâu – mà còn là một thách thức về mặt phương pháp luận ngay cả với các nhà nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu ANT tìm kiếm cách thức để khám phá các phức tạp mang tính sáng tạo cấu thành và ổn định thực tại kỹ thuật và xã hội. Ví dụ, một chiến lược phổ biến là tập trung vào những thời điểm tranh cãi về mặt kỹ thuật-xã hội, khi các mạng bị gián đoạn và khi kết cấu của chúng lại trở nên có vấn đề.
Ví dụ, trong cuốn Hành động trong Thế giới Bất định, Callon, Lascoumes và Barthe (2009) đã nghiên cứu cuộc tranh cãi về bệnh bò điên để chỉ ra những hạn chế của nền dân chủ ủy quyền, vốn đưa ra những giả định về cách thức xã hội của chúng ta được cấu thành và loại trừ các khía cạnh kỹ thuật và khoa học trong đời sống tập thể. Một cách khác để mở ra hộp đen của mạng-tác nhân bao gồm việc theo dõi các dự án đang diễn ra, theo thời gian thực hoặc sau đó thông qua bằng chứng lịch sử và tài liệu. Theo nghĩa đó, lý thuyết mạng-tác nhân đã chứng tỏ sức mạnh [tr.5] trong việc phân tích cấu trúc không chỉ của các sự kiện khoa học hoặc công nghệ, mà còn của các tập thể, tổ chức và các nhóm xã hội khác. Việc ANT thâm nhập vào lý thuyết xã hội này là hợp lý bởi vì, thông qua khái niệm mạng-tác nhân, nó luôn thừa nhận tính chất tập thể của hành động. Một điểm mới trong lý thuyết xã hội của ANT chính là việc nó từ chối đề cập đến một xã hội đã hiện hữu, hoặc những cấu trúc đã tồn tại từ trước. Ví dụ, đối với ANT, “không có nhóm, chỉ có sự hình thành nhóm” (Latour, 2005, tr. 27).
Các tập thể, cấu trúc và tổ chức phải được xem xét từ góc độ “mặt phẳng” của các tương tác, tức là từ các hành động và cuộc gặp gỡ có thể quan sát được. Mặt khác, nếu các thể chế và thực thể xã hội đã được cấu trúc sẵn được viện dẫn để giải thích các tập thể, thì những lý giải đó có nguy cơ trở nên lặp thừa. Điều đặc biệt đáng quan tâm đối với các học giả nghiên cứu giao tiếp là việc lý thuyết mạng-tác nhân nhấn mạnh vào một loạt các khái niệm ký hiệu học, điều này đã khiến cho nó hoặc được hoan nghênh hoặc ngược lại bị chỉ trích. Ví dụ, một trong những khái niệm chính của lý thuyết mạng-tác nhân là “phiên dịch”. Trên thực tế, ANT đôi khi được gọi là xã hội học phiên dịch. Bản dịch bao gồm việc một tác nhân cụ thể (hoặc một mạng tác nhân hộp đen) có thể đóng vai trò là kẻ phát ngôn cho nhiều tác nhân khác mà nó quản lý để đưa vào một chương trình hành động cụ thể. Nói cách khác, hành động của những tác nhân khác được thực hiện hoặc thể hiện thông qua spokesperson phát ngôn nhân, kẻ đóng vai trò là gương mặt hữu hình hoặc giọng nói có thể nghe được của tác nhân-mạng lưới. Việc dịch thuật cho phép làm cho hành động của mạng-tác nhân tương đương ở những nơi khác, thời điểm khác, hoặc ở những cấp độ khác nhau, ví dụ khi một graph biểu đồ phiên dịch hành động của vi khuẩn vô hình, hoặc khi một nhà dân tộc học viết về những nơi xa xôi về mặt địa lý hoặc văn hóa. Dĩ nhiên, việc phiên dịch không bao giờ hoàn hảo, và luôn ẩn chứa yếu tố phản bội. Đây là lý do tại sao, đối với các nhà nghiên cứu, mạng-tác nhân cần được khai mở và khải lộ: đám đông ồn ào và hỗn loạn được kiểm soát và giữ gìn gọn gàng miễn là các hành động của chúng/họ được phiên dịch thành một chương trình hành động gọn gàng và trơn tru. Tuy nhiên, phát ngôn nhân có thể bị phản đối, và những rạn nứt có thể xuất hiện trong sự thống nhất bề ngoài của mạng-tác nhân.
Tương tự như vậy, văn liệu ANT đã nhấn mạnh vào ý tưởng cho rằng một tác vật vật chất – ví dụ như một thiết bị công nghệ – được “ghi khắc” bằng một script “văn bản”, nghĩa là tác vật nói trên mang theo ý định ít nhiều rõ ràng của các nhân vật lành nghề hoặc [tr. 6] nhà thiết kế đã hình thành nên nó. Ví dụ, dây an toàn tự động cài vào ngực người lái xe được khắc một ý nghĩa đạo đức nhất định, nghĩa là không thể tin tưởng người lái xe về sự an toàn của chính họ. Có một số tranh cãi nhất định về việc liệu các khái niệm như inscription ghi khắc – mà còn cả các khái niệm liên quan, chẳng hạn như circulation “lưu thông”, mediators “kẻ trung gian” hoặc scripts “văn bản”, cũng như sự phụ thuộc của ANT vào narrative theory lý thuyết tự sự của A. J. Greimas – có nên được hiểu theo nghĩa bóng hay nghĩa đen. Nói cách khác, ANT có phải là một lý thuyết về hành động của con người và các hiện hữu phi- nhân, hay đúng hơn là một lý thuyết về cách hành động có thể được mô tả, viết và lưu hành dưới dạng văn bản? Ví dụ, mặc dù Latour đã thực hiện nghiên cứu về phép tu từ và ký hiệu học trong văn bản học thuật, và mặc dù ông nhấn mạnh sự cần thiết của một lý thuyết phát âm, thì điều này vẫn có thể cho thấy ông thực sự quan tâm đến một phiên bản ngôn ngữ học của ANT nhiều hơn, đồng nghiệp người Anh của ông, John Law, lại đề xuất “tính quan hệ vật chất-ký hiệu học” là tên gọi cho các giả định nền tảng của ANT về thực tại; tuy nhiên, ở đây, “ký hiệu học” nên được hiểu là việc định nghĩa và định hình lẫn nhau giữa các yếu tố của một mạng nhất định, chứ không phải là nghiên cứu về ký hiệu và ý nghĩa. Hơn cả việc phân tích tỉ mỉ, cách ANT sử dụng vốn từ vựng “ký hiệu học” này cũng rất quan trọng, chính xác là vì vị thế mà nó mang lại cho tính vật chất và khả năng tác động của nó. Do đó, có thể nói rằng ANT và giao tiếp dường như có mối quan hệ tự nhiên, ít nhất là ở việc chia sẻ một vốn từ vựng chung, nhưng sự tương ứng thực tế có thể khác nhau tùy thuộc vào vai trò mà ANT dành cho các thuật ngữ đó, và phiên bản tác tố vật chất mà người ta sẵn sàng thừa nhận.
Sự liên kết rõ ràng giữa ANT và giao tiếp càng trở nên phức tạp hơn bởi thực tế là lý thuyết này chưa xem xét một cách tường minh vai trò cụ thể của giao tiếp, dù là một cách hiện thực hóa nhiều khái niệm của nó (dịch thuật, khắc ghi, hòa giải, v.v.) trong việc đàm phán các tranh cãi xã hội-kỹ thuật, hay trong việc xây dựng các thực thể xã hội. Ví dụ, mãi đến năm 2008, Latour mới lần đầu tiên tham gia đối thoại với các học giả truyền thông trong khuôn khổ hội nghị tiền hội nghị của Hiệp hội Truyền thông Quốc tế về giao tiếp tổ chức (xem Latour, 2013), sau đó là một bài viết trên Tạp chí Truyền thông Quốc tế (Latour, 2011). Mặc dù ANT mất một thời gian để tiếp cận giao tiếp, nhưng về phần mình, các học giả truyền thông đã thể hiện mối quan tâm đến lý thuyết mạng-tác nhân từ giữa những năm 1990, và điều này cũng đúng với [tr.7] các nhà nghiên cứu giao tiếp có tổ chức. Trong các phần tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét cách các nghiên cứu giao tiếp nói chung đã vay mượn từ lý thuyết mạng-tác nhân trước khi xem xét những cách mà ANT đã ảnh hưởng cụ thể hơn đến lĩnh vực giao tiếp tổ chức.
ANT và các nghiên cứu giao tiếp/truyền thông
Do ANT bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học và công nghệ, nên việc ứng dụng nó vào lĩnh vực truyền thông cũng nhấn mạnh tương tự vào công nghệ, bao gồm cả phương tiện truyền thông mới là điều dễ hiểu. Thực tế, một số nhà nghiên cứu công nghệ truyền thông và phương tiện truyền thông mới đã vay mượn ý tưởng từ ANT. Ví dụ, trong công trình trước đó của học giả Thierry Bardini về phương tiện truyền thông mới và văn hóa mạng, ông đã sử dụng các khái niệm về chữ viết của ANT để lý giải cách thức mà công nghệ “ghi lại” một hiểu biết cụ thể về người dùng cuối. Đối với Bardini, ANT cho phép một góc nhìn khác về khái niệm công nghệ, đặc biệt là trong bối cảnh những năm 1980, khi đó bị chi phối bởi các quan điểm kinh tế, bao gồm cả chủ nghĩa Marx. Lý thuyết này cho phép một tầm nhìn về công việc của các kỹ sư vượt ra ngoài những cân nhắc về tiến bộ, đột phá khoa học hay khả năng tồn tại về mặt kinh tế; thay vào đó, trọng tâm là công việc thực tế của họ, bao gồm cả những cách thức cụ thể mà họ có thể hình dung về việc sử dụng công nghệ mà họ đang thiết kế. Điều thú vị là, Bardini đã chuyển hướng khỏi ANT trong các bài viết sau này. Tương tự như vậy, Siles và Boczkowski (2012) đã dựa trên lý thuyết ANT và các lý thuyết tương tự để đưa ra đề xuất nội dung do người dùng tạo ra trên các phương tiện truyền thông mới đóng một vai trò trong việc định hình chính công nghệ. Dựa trên khái niệm tập hợp (có thể được so sánh tương đương với khái niệm mạng-tác nhân, mặc dù nó có lịch sử riêng), họ chỉ ra rằng công nghệ, nhìn chung, vượt ra ngoài tính vật chất thuần túy của nó và bao gồm cả việc sử dụng nó cũng như nội dung được tạo ra trong những công việc sử dụng đó. Cách tiếp cận mà họ gọi là “văn bản-tài liệu” cho phép thừa nhận đầy đủ sự tương tác của người dùng với công nghệ, thay vì tách biệt khái niệm công nghệ về các thiết bị và nền tảng truyền thông mới khỏi việc sử dụng chúng. Đối tượng nghiên cứu, ở đây là phương tiện truyền thông mới, được xem là đang trong quá trình hình thành – đang phát triển khi người dùng và phần mềm thay đổi. Song song với việc tập trung vào công nghệ thực sự, một số nhà nghiên cứu đã tập trung vào các tranh cãi về mặt xã hội-kỹ thuật từ góc độ giao tiếp.
[P.8] Ví dụ, đây là trường hợp của Benoit-Barné (2009), người đã nghiên cứu “thói kiên ngoan vật chất” thông qua ví dụ về một đập thủy điện – cùng với các đặc điểm kỹ thuật khác nhau của nó để đo mực nước – không để bản thân bị định nghĩa bởi diễn ngôn chính thức của một công ty điện lực (về một đợt hạn hán sắp xảy ra), do đó mâu thuẫn với nó. Nghiên cứu của bà là một ví dụ mạnh mẽ về nonhuman agency tác tố phi-nhân trong các tranh cãi kỹ thuật xã hội, vì nó cho thấy diễn ngôn của con người có thể bị mâu thuẫn bởi hành động phi-nhân. Về phần mình, Besel (2011) đã chỉ ra cách thức mà một graph biểu đồ cụ thể trong một cuộc tranh cãi liên quan đến biến đổi khí hậu đã bị một số người coi là “hộp đen”, tức là không có vấn đề gì và đều mang tính tự nhiên, trong khi những người khác – những kẻ hoài nghi về biến đổi khí hậu – đã cố gắng mở lại hộp đen đó.
Lời kể của Besel về các sự kiện minh họa cho lập luận của ANT liên quan đến nhu cầu về các nguồn lực quan trọng để mở lại các sự kiện và công nghệ bị đóng hộp đen, và một lần nữa bộc lộ tính phức tạp của mạng-tác nhân. ANT cũng đã tìm được chỗ đứng trong các nghiên cứu về báo chí, nơi nó hữu ích trong việc lý giải những thay đổi trong thực hành công việc của các nhà báo, đặc biệt là liên quan đến công nghệ. Lý thuyết này cho phép chấp nhận tính không đồng nhất của công việc báo chí và nhận ra nhiều yếu tố tạo nên sự khác biệt trong lĩnh vực đó. Ví dụ, Rodgers (2015) đã nghiên cứu cách thức mà các chi tiết kỹ thuật của một phần mềm - hệ thống quản lý nội dung của một tờ báo ở Toronto, Canada - đóng vai trò quan trọng trong công việc của nhân viên tòa soạn và khả năng cung cấp tin tức kịp thời của họ. Rodgers lập luận rằng, trái ngược với các báo cáo chính thức và các nghiên cứu chỉ giới hạn phạm vi của chúng trong “hiệu ứng” của công nghệ, sự phát triển của hệ thống là liên tục và gắn liền với logic tổ chức, vì hệ thống, thay vì là một đơn vị thống nhất, là một mạng-tác nhân bao gồm các thành phần khác nhau cũng như cách sử dụng khác nhau của chúng trong các bộ phận khác nhau của tập đoàn. ANT cho phép tác giả đi sâu vào lịch sử “hỗn độn” của hệ thống, thay vì bám vào những câu chuyện mạch lạc sau sự kiện. Thực tế, lý thuyết mạng-tác nhân cho phép nhấn mạnh rằng ranh giới là mờ nhạt và là kết quả ổn định của một mạng-tác nhân.
ANT và giao tiếp tổ chức
[Tr.9] Mặc dù lý thuyết giao tiếp nói chung chủ yếu vay mượn từ các cuộc thảo luận của ANT về công nghệ và tính không đồng nhất của hành động, giao tiếp tổ chức đã tiếp thu một loạt các khái niệm của lý thuyết này và thực hiện điều đó theo những cách đa dạng hơn. Đặc biệt, nó đã tiếp thu cách tiếp cận ban đầu của ANT về khái niệm mạng. Giao tiếp tổ chức cũng đã thể hiện một cách toàn diện hơn sự đa dạng của các yếu tố phi-nhân có thể tham gia vào các tổ chức, bên cạnh công nghệ. Quan trọng hơn, một số nghiên cứu đã dựa vào ANT để thu hẹp khoảng cách giữa giao tiếp và tổ chức, và chỉ ra cách tương tác và giao tiếp “mở rộng” để tạo nên các tập thể mà chúng ta gọi là tổ chức. Bằng cách đó, họ đã làm bộc lộ sức mạnh của lý thuyết mạng-tác nhân đối với việc nghiên cứu cấu trúc giao tiếp của tổ chức (CCO - Communicative Constitution of Organizations): các cách thức mà tài liệu, ghi chú, email, bảng trắng, bài thuyết trình và các “công nghệ” khác góp phần vào việc tổ chức các quy trình thông qua khả năng truyền tải lời nói (và các hành động được thực hiện thông qua lời nói) qua thời gian và không gian, cho phép giao tiếp hoạt động vượt ra ngoài tình huống cụ thể của quá trình sản sinh ra nó. Việc áp dụng ANT vào giao tiếp tổ chức, đặc biệt là CCO, được hỗ trợ bởi thực tế là các lý thuyết mạng-tác nhân đã chỉ ra rằng các thực thể xã hội không chỉ trôi nổi ngoài kia, mà sự tồn tại của chúng cần được giải thích từ những chi tiết nhỏ nhặt của các tương tác hàng ngày. Do đó, nhiều học giả về giao tiếp có tổ chức đã tìm thấy ở ANT không chỉ một lý thuyết về tác tố phi-nhân, mà còn là một lý thuyết về xã hội, ít nhất ở một mức độ nào đó, có thể làm cơ sở cho lý thuyết của họ.
Mạng [Networks]
Như đã đề cập trước đó, khái niệm “mạng” trong ANT mang một ý nghĩa đặc biệt: nó không phải là một lý thuyết về con người hay sự vật được kết nối trong các mạng (ví dụ, mạng viễn thông hoặc mạng xã hội), mà là một theory of actants lý thuyết về các hành tác nhân với tư cách các mạng. Nói cách khác, nó nhấn mạnh vào thực tế rằng bất kỳ hành động nào cũng đã được chia sẻ với những kẻ khác. Tuy nhiên, sự chia sẻ đó có thể (nhưng không nhất thiết) mang hình thức của một mạng cụ thể, theo nghĩa thông thường hơn của từ này. Sự hiện diện của từ “mạng” trong tên của lý thuyết đã khiến một số người ưu tiên [tr.10] nghiên cứu sự chia sẻ hành động này trong các mạng thông thường như vậy, bao gồm cả các mạng liên tổ chức. Ví dụ, LaVigne (2003) đã sử dụng lý thuyết mạng-tác nhân để ghi lại việc tạo ra một hệ thống quản lý thông tin về người vô gia cư ở Tiểu bang New York và cấu trúc tương ứng của nó trong một mạng các tổ chức và tác tố cho đến nay vẫn còn yếu kém.
Hệ thống này không chỉ mô tả các mối quan hệ hiện có giữa các cơ quan tài trợ, tổ chức phi lợi nhuận, nơi cư ngụ, dịch vụ chăm sóc trẻ em và nhiều tổ chức khác mà còn tạo ra các mối quan hệ mới giữa chúng (ví dụ, trong việc thiết lập nghĩa vụ báo cáo về các hoạt động của họ) và với dân số vô gia cư của tiểu bang. Hương vị ANT độc đáo trong nghiên cứu của LaVigne nằm ở chỗ hệ thống máy tính tạo ra mạng lưới mà nó tuyên bố mô tả: nói cách khác, công nghệ có các đặc tính tổ chức trong khả năng liên kết con người, nơi cư ngụ, các cơ quan và chương trình với nhau. Các nghiên cứu tương tự đã được tiến hành, ví dụ như trong việc nghiên cứu cấu trúc của các mạng liên tổ chức tồn tại để cung cấp dịch vụ y tế cho nhiều nhóm khách hàng khác nhau hoặc để trao đổi dữ liệu chiến lược giữa các doanh nghiệp và tổ chức, hoặc trong việc thiết lập quan hệ đối tác nghiên cứu và phát triển. Lý thuyết mạng-tác nhân đặc biệt được sử dụng khi mạng đang nghiên cứu được hình thành thông qua các phương tiện công nghệ: ví dụ, các nhà quảng cáo trực tuyến được hợp nhất trong một hiệp hội chính thức, nhưng cũng thông qua việc chia sẻ các công nghệ theo dõi hành vi trực tuyến (Beck, 2015). Ở một mức độ lớn, các tài liệu về lý thuyết mạng-tác nhân cũng cung cấp các ví dụ về mạng liên tổ chức và các hoạt động giao tiếp của chúng xung quanh những thách thức công nghệ: đây là trường hợp nghiên cứu của Callon và Law (1992) về nhiều tổ chức và cơ quan chính phủ tham gia vào dự án (đã bị hủy bỏ) thiết kế máy bay quân sự của Anh.
Tác tố phi-nhân
Một trong những khái niệm từ lý thuyết mạng-tác nhân mà giao tiếp tổ chức đã sử dụng hiệu quả nhất là tác tố phi-nhân. Điều này được thực hiện thông qua việc thừa nhận vai trò của công nghệ trong môi trường tổ chức, nhưng cũng thông qua sự công nhận rộng rãi hơn rằng agency tác tố không chỉ giới hạn ở con người, mà còn được chia sẻ với các hiện hữu khác, kể cả tài liệu và con số. Về mặt công nghệ, Taylor và Van Every (1993) đã sử dụng thảo luận của Callon và [tr.11] Latour về phiên dịch để giải thích cách thức mà công nghệ và tính vật chất mang lại độ bền và khả năng hiển thị cho organizational macro-actor “tác nhân vĩ mô” mang tính tổ chức. Tác nhân vĩ mô không ở một “cấp độ” khác biệt so với các thực thể khác; nó không “lớn hơn” hay bao quát hơn cái gọi là cá thể. Thay vào đó, nó là một tập hợp ngang hàng của những cá thể này, với một spokesperson phát ngôn nhân cung cấp cho chúng/họ khả năng hành động và phát biểu tập thể. Gần đây, các học giả đã công nhận ANT là một lý thuyết ứng viên để giải thích cho sự thay đổi công nghệ và đóng góp của nó vào việc hình thành các tổ chức, cũng như vai trò trong các hoạt động phối hợp giữa shared agency tác tố chung của cả công nghệ và con người (xem, ví dụ, công trình của Paul Leonardi). Nói cách khác, ANT cho phép giải thích các cách thức mà heterogeneity tính không đồng nhất của công nghệ thông tin mang lại homogeneity tính đồng nhất cho các tổ chức.
Bên cạnh công nghệ, các học giả về giao tiếp tổ chức cũng thừa nhận sự đóng góp của các hình thức tác tố phi-nhân khác. Đặc biệt, người ta tập trung vào cái được gọi là textual agency “tác tố văn bản”, tức là khả năng của các loại văn bản - tài liệu, hợp đồng, quy trình, tờ rơi - tạo ra sự khác biệt trong các tình huống. Ví dụ, Cooren (2004) đưa ra ví dụ về một ghi chú: một nhân viên có thể nói rằng cô ấy đã tự nhắc nhở mình về điều gì đó bằng một ghi chú, nhưng cũng đúng khi nói rằng chính ghi chú đã nhắc nhở cô ấy về điều gì đó. Việc quyết định phần nào của the worker–note hybrid vật lai nhân viên-ghi chú thực sự vận hành là một vấn đề gây tranh cãi, chứ không phải là một thuộc tính nội tại của hành động. Một lập luận tương tự đã được đưa ra trong tác phẩm sâu sắc của Brummans (2007) về euthanasia declaration tuyên bố an lạc tử và sự đóng góp của nó vào các quyết định liên quan đến điều trị cuối đời. Mặc dù không liên quan đến các tài liệu như vậy, các ví dụ khác về các tác tố phi nhân bao gồm các cách khác nhau mà mọi thứ được đo lường trong các tổ chức.
Các hoạt động kế toán và lập ngân sách khác nhau, khi được xem xét dưới lăng kính thân thiện với ANT, không chỉ là những mô tả định lượng về các quy trình tổ chức mà còn là yếu tố cấu thành nên các quy trình đó. Kế toán, bằng cách đảm bảo tính tương đương được duy trì trong suốt chains of inscriptions các chuỗi ghi khắc theo thời gian và không gian, cũng cho phép cấu trúc tổ chức và hành động (từ xa). Công trình của Bertrand Fauré và Paolo Quattrone là những ví dụ về nghiên cứu lấy cảm hứng từ ANT về các con số trong các tổ chức. Bên cạnh kế toán, các tài liệu cũng đã xác định cách ANT cho phép nhận biết các tác động khác của các con số trong tổ chức: ví dụ, một thước đo [tr.12] quyết định trẻ em nào được chăm sóc dinh dưỡng trong trại Bác sĩ Không Biên giới (Médecins Sans Frontières) (Cooren & Matte, 2010) hoặc một bản kê được lập ra trên bảng đen cho biết trẻ em có bị bệnh hay không (Cooren & Bencherki, 2010).
Mối liên hệ giữa giao tiếp và tổ chức
Lý thuyết mạng-tác nhân đóng vai trò trung tâm trong một số quan điểm nhất định về giao tiếp tổ chức, cho rằng giao tiếp là yếu tố cấu thành nên tổ chức. ANT thực sự cho phép nhấn mạnh cách thức mà tính vật chất (bao gồm công nghệ, tài liệu, v.v.) cho phép chuyển đổi từ những giai đoạn giao tiếp đơn lẻ và phù du sang những tổ chức dường như lớn hơn và ổn định hơn - điều mà các tài liệu về giao tiếp tổ chức gọi là “mở rộng quy mô”. Nhờ sự đóng góp của vật chất trong tổ chức, giao tiếp có thể rời khỏi bối cảnh sản xuất và hoạt động ở nơi khác, vào một thời điểm khác, và do đó đan xen không gian và thời gian. Một điểm độc đáo từ ANT vào giao tiếp tổ chức là tập trung vào hành động, thay vì con người, như một đơn vị phân tích. Thật vậy, như Barbara Czarniawska (2004) gợi ý, các tổ chức có thể được hiểu rõ hơn như những mạng hành động được đan xen với nhau thông qua các narratives tự sự. Đặc biệt, Latour dựa trên khái niệm “chương trình hành động” của Greimas để lý giải cách thức mà các actants hành tác nhân khác nhau có thể theo đuổi các mục tiêu, chuyển hóa lẫn nhau thành một hành động tập thể chung.
Trong lĩnh vực của chúng tôi, điều này dẫn đến gợi ý rằng sự đan xen của các chương trình hành động tương ứng với việc kết hợp các tự sự cá nhân vào một organizational metanarrative or into an authoritative text siêu tự sự của tổ chức hoặc vào một văn bản có thẩm quyền (Kuhn, 2008). Các phương pháp tiếp cận lấy cảm hứng từ ANT cũng đã khám phá cách thức mà các thực thể vật chất, bao gồm cả văn bản, có tác động tổ chức - nhưng cũng có tác động phá vỡ tổ chức. Ý tưởng này dựa trên công trình trước đó của Taylor và các đồng nghiệp về ý tưởng cho rằng các tổ chức được hình thành thông qua interplay of text and conversation tương tác giữa văn bản và hội thoại. Theo lập luận này, văn bản ổn định các cuộc hội thoại, từ đó cho phép các văn bản lên tiếng trong tình hình hiện tại. Mặc dù Taylor và những người khác đã đề xuất ý tưởng này từ năm 1996, nhưng cho đến tận ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn còn được cảm nhận. Gần đây hơn, khái niệm “vấn đề đáng quan tâm” của Latour đã được sử dụng trong giao tiếp tổ chức để giải thích [tr.13] cách thức mà các sự vật - vấn đề, đối tượng, tài liệu, v.v. - có thể trở nên năng động trở lại trong bối cảnh tương tác hiện tại (xem, ví dụ: Cooren và cộng sự, 2015). Thật vậy, khái niệm này nhấn mạnh ý tưởng rằng một trong những cách mà facts “sự thật” - ví dụ như một mối đe dọa chiến lược cụ thể - hoạt động là được thể hiện dưới dạng mối quan tâm và được người khác tiếp nhận như vậy trong hội thoại.
Mặc dù việc phân loại các nhà nghiên cứu theo trường phái và truyền thống luôn là một điều tế nhị, nhưng có lẽ sẽ chính xác hơn nếu mô tả nhiều người đã được đề cập cho đến nay (một cách mơ hồ) thuộc về cái gọi là Trường phái Montreal về giao tiếp tổ chức, trường phái này chia sẻ với các phương pháp tiếp cận khác về quan điểm cho rằng giao tiếp là yếu tố cấu thành nên tổ chức. Tính độc đáo của Trường phái Montreal một phần nằm ở việc mượn từ ANT cái trọng tâm của nó [its focus] về vai trò của materiality tính vật chất trong việc hình thành xã hội, nghĩa là tài liệu, công nghệ và các “vật chất” khác – bao gồm biên bản cuộc họp, giấy ghi nhớ [sticky notes], bảng trắng, email, và nhiều thứ khác – giúp các cuộc trò chuyện của chúng ta được duy trì và mang chúng đến những nơi chốn và thời điểm khác. Điều này có nghĩa là mọi loại vật chất đều cho phép các quyết định, kế hoạch, phán đoán, dự báo và các hành vi ngôn ngữ khác của chúng ta có tác động ở những nơi chốn và thời điểm khác. Nhận thức được vai trò của vật chất trong việc hình thành các tổ chức, các nhà nghiên cứu của Trường phái Montreal gọi những thứ đó là “plenums of agencies” “hội nghị toàn thể các tác tố”.
Phê phán ANT và hướng nghiên cứu trong tương lai
Điều thú vị và có lẽ là dấu hiệu cho thấy sự phù hợp của lý thuyết mạng-tác nhân với giao tiếp tổ chức là có rất ít phê phán về ANT xuất phát từ chính chuyên ngành của chúng tôi. Tuy nhiên, những phê phán được đưa ra ở nơi khác có thể liên quan đến các học giả về giao tiếp tổ chức và gợi ý những hướng đi khả thi trong tương lai cho sinh viên và nhà nghiên cứu. Một phê phán kinh điển đầu tiên về ANT là nó không có khả năng tư duy phản biện về những thực tế mà nó mô tả. Nói cách khác, nó không quan tâm đến các vấn đề liên quan đến quyền lực, hoặc các điều kiện lịch sử của quyền lực. Ví dụ, ANT bị cáo buộc giải thích sự hình thành các mạng, nhưng lại không giải thích được động lực của chúng sau khi chúng được hình thành và ảnh hưởng của chúng đến sự phân bổ quyền lực. Quan điểm ủng hộ ANT, được cho là, đã bỏ qua việc xem xét các hệ quả của công nghệ [tr. 14], cũng như bối cảnh cấu trúc và văn hóa nơi nó được tạo dựng. Việc bỏ sót các vấn đề về quyền lực này có thể xuất phát từ ANT’s theory of agency lý thuyết về tác tố của ANT, vốn gán cho con người và sự vật về bản chất là tác tố, mà không đặt câu hỏi về năng lực hành động đó – mặc dù, theo lời phê phán, tác tố trở nên khả thể bởi toàn bộ các loại social factors yếu tố xã hội mà ANT bỏ qua.
Điều thú vị là, mặc dù nhiều người bày tỏ lo ngại về việc ANT thiếu quan tâm đến các vấn đề quyền lực, nhưng những người khác lại cáo buộc ANT hoàn toàn ngược lại: khoa học, tri thức và hầu hết mọi thứ khác đều trở thành chiến trường của các opposing agencies tác tố đối lập, mà không phát hiện ra chan lý thật thực sự nào, như Amsterdamska đã chỉ ra trong một bài báo được trích dẫn rộng rãi với tiêu đề rõ ràng “Chắc hẳn ông đang đùa, thưa ông Latour!” (1990). Thay vì tiếc nuối về một “bản thể luận chính trị” như vậy, Alcadipani và Hassard (2010) lại chỉ ra rằng lời giải thích của ANT về cách thức mà vạn vật được “assembled into being” “lắp ráp thành hiện hữu” (tr. 423) mang lại tiềm năng “giải tự nhiên hóa” các tổ chức và tập thể mà chúng ta coi là đương nhiên. Nói cách khác, ANT cảnh báo về cái bẫy của việc cho rằng cách thức mà chúng ta tổ chức cuộc sống và lao động chung là cách duy nhất khả thể. Bản thân Latour thì lưu ý rằng đối với ANT, quyền lực không phải là thứ dùng để giải thích thực tại; ngược lại, lý thuyết này quan tâm đến việc tìm hiểu cách thức quyền lực được thực hiện, mà không giả định ai hoặc cái gì có quyền lực. Nói cách khác, đối với ANT, quyền lực nên được nghiên cứu in actu qua hành động - tức là trong hoạt động thực tế của nó.
Các nhà phê bình khác đã phản đối vai trò mà ANT trao cho các nonhuman “actors” “tác nhân” phi-nhân nhân danh “tính đối xứng chung” mà nó đòi hỏi. Điều này liên quan đến vấn đề intentionality ý hướng tính, cũng như các câu hỏi liên quan về phẩm giá con người và những gì xứng đáng được gọi là một “hành động”. ANT bị cho là phủ nhận thực tế là chỉ con người mới có thể biến đổi xã hội, và chỉ acts những hành vi như vậy mới xứng đáng được gọi là actions hành động. Việc con người tương tác với các phi-nhân có thể đúng, nhưng cả hai loại tác tố này không thể được phân tích theo cùng một khuôn khổ. Những chỉ trích gay gắt hơn bao gồm các cáo buộc về sự quay trở lại của hylozoism vật hoạt luận (niềm tin rằng các vật thể vô tri vô giác đều có sự sống). Lập luận phản đối ANT xoay quanh khái niệm ý hướng tính, tức là liệu hành động có nên có chủ ý hay không; việc trả lời “có” cho câu hỏi này đồng nghĩa với việc giới hạn tác tố vào con người. Lập luận này cũng xuất phát từ bên trong giao tiếp tổ chức; cụ thể, những câu hỏi đặt ra liên quan đến việc liệu tác tố phi nhân có thể có ý nghĩa hay không (McPhee & Seibold, 1999). McPhee, và [tr.15], nói chung, truyền thống “bốn dòng chảy” của CCO, tuân theo lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens, trong đó tác tố không chỉ giả định ý hướng tính mà còn cả tính phản ánh và tri thức ngữ cảnh, ngăn cản việc quy kết hành động cho các hiện hữu phi-nhân. Hơn nữa, đối với Giddens (1993), tác tố không chỉ là hành động theo một cách nào đó, mà còn sở hữu năng lực “đã hành động khác đi” (tr. 81), ngụ ý một hình thức quyết định hoặc lựa chọn, điều này không có sự tương ứng trong ANT.
Một vấn đề khác đã được nêu ra liên quan đến ANT, như đã được Bardini (2007) báo cáo, là mối quan hệ mơ hồ của nó với tính phản thân. Thật vậy, chương trình của ANT nhằm chứng minh khoa học và công nghệ là những thành tựu thực tiễn lại được áp dụng một cách không hoàn hảo vào chính những mô tả quan sát của các học giả ANT. Làm thế nào để đạt được điều đó mà không cần một dạng hồi quy vô hạn vẫn chưa được xác định và cần được xem xét thêm. Mặc dù một số học giả tìm thấy giải pháp bằng cách áp dụng các thực hành viết làm nổi bật những bất định tính và các hạn chế của riêng họ, những người khác lại thẳng thừng bác bỏ nhu cầu họ phải phản tư về nghiên cứu của chính mình. Một phê phán cuối cùng liên quan đến đặc điểm “ký hiệu học” của ANT, như đã được mô tả ở trên (xem Bardini, 2007). Thật vậy, bằng cách sử dụng - dù là ẩn dụ hay cách khác - một ngôn ngữ vay mượn từ ký hiệu học, và đặc biệt là từ lý thuyết tự sự của Greimas, ANT có nguy cơ quy giản mọi thứ thành văn bản và thành scripts “kịch bản”. Thay vì nghiên cứu tính vật chất và vai trò của công nghệ, chẳng hạn, lý thuyết này rất có thể sẽ đang nghiên cứu mô tả của chúng bằng lời nói, hoặc các quy trình viết được khắc ghi trong/trên chúng. Phê phán này đặc biệt liên quan đến chúng tôi ở đây, vì nó đã được mở rộng để bao gồm cả Trường CCO Montreal, các thành viên của trường này, theo lập luận, bằng cách dựa vào khái niệm về các vấn đề đáng quan tâm, đã nghiên cứu tính chất vật chất chỉ ở mức độ nó được “văn bản hóa” thông qua việc gợi lên mối quan tâm đối với những người tham gia các cuộc họp và các tương tác.
Cuối cùng, trừ một số trường hợp ngoại lệ, mối quan hệ giữa ANT và giao tiếp tổ chức chủ yếu là một chiều. Tuy nhiên, có nhiều cách để giao tiếp tổ chức, và có lẽ đặc biệt là CCO, đóng góp ngược lại cho ANT. Ví dụ, CCO, với tư cách là một cách tiếp cận khác về tổ chức, đang ở vị thế tốt để xây dựng chính xác loại hiểu biết phê phán [tr. 16] có thể phản hồi lại ANT và đóng vai trò là câu trả lời cho những người tin rằng lý thuyết này thiếu khả năng giải quyết các vấn đề về quyền lực. Thật vậy, bằng cách xem các tổ chức, nhà máy và các nơi làm việc khác là những thành tựu liên tục, thay vì những thực thể ổn định và cố định, các học giả CCO có thể cung cấp cho ANT phương tiện để thể hiện khả năng đặt câu hỏi về bản chất được coi là hiển nhiên của các mối quan hệ công việc, bao gồm cả các mối quan hệ quyền lực, đặc biệt là ở mức độ mà tính vật chất có thể dự phần trong việc hình thành và ổn định các mối quan hệ đó. Khi giao tiếp tổ chức tiếp tục vay mượn từ ANT, nó sẽ cần phải đưa ra lời đáp cho những chỉ trích mà ANT đã phải đối mặt. Ví dụ, liệu các cuộc thảo luận của chúng ta về tổ chức có nên ưu tiên cho tính ý hướng và phẩm giá của con người hay không? Làm thế nào chúng ta có thể dung hòa mối quan tâm của mình đối với vai trò của công nghệ với cách xử lý độc đáo về các vấn đề quyền lực? Những câu hỏi này, cùng nhiều câu hỏi khác, không chỉ là rào cản mà còn là những cơ hội thú vị cho nghiên cứu giao tiếp tổ chức sáng tạo trong tương lai. Các nghiên cứu gần đây về giao tiếp tổ chức đã gợi ý sự gắn kết với tính vật chất vượt ra ngoài phạm vi “văn bản hóa” của nó (Putnam, 2015, về mối quan hệ giữa diễn ngôn và tính vật chất).
Tương tự như vậy, việc tiếp tục nghiên cứu ANT và các lý thuyết liên quan cũng có thể dẫn chúng ta đến việc xem xét lại ý nghĩa của giao tiếp: việc cố gắng đưa các phi-nhân vào phương trình có thể là một cơ hội để xây dựng một lý thuyết về giao tiếp (tổ chức) không chỉ giới hạn ở ngôn ngữ con người. Hơn nữa, nghiên cứu giao tiếp tổ chức có thể muốn xem xét ANT không chỉ về mặt công nghệ hay tính vật chất, mà còn – và có lẽ quan trọng hơn – như một lý thuyết về shared agency tác tố chung, đúng như tên gọi của nó. Thật vậy, các học giả về ANT đã khẳng định rằng sự phân chia giữa con người và phi-nhân không hề tồn tại, vậy mà trong cách diễn giải lý thuyết này, chúng ta đã cụ thể hóa sự phân chia này hơn bao giờ hết. Tiếp cận ANT từ ý tưởng rằng tác tố được chia sẻ có thể giúp chúng ta xem xét lại các vấn đề về hành động tổ chức, tư cách thành viên, quyền sở hữu và các tình huống khác với vị trí của tác tố bị tranh chấp hoặc nhầm lẫn, mà không cần chia thế giới thành bất kỳ phạm trù nào trước.
__________________________________
Nguồn: Bencherki, N. (2017). Actor–Network Theory. Published in Craig Scott & Laurie Lewis (eds.). The International Encyclopedia of Organizational Communication. New York, NY: Wiley.
Tác giả: Nicolas Bencherki, Giáo sư, Khoa Khoa học Nhân văn, Nghệ thuật và Truyền thông. Các công trình của ông áp dụng phương pháp dân tộc học để nghiên cứu giao tiếp tổ chức giữa các tổ chức cộng đồng, đặc biệt là sự hợp tác giữa các nhóm để đạt được hành động tập thể. Về mặt lý thuyết, công trình của ông khám phá các khái niệm về tài sản và quyền sở hữu hành động, cũng như việc chia sẻ chúng giữa các cá nhân và tổ chức. Bằng cách thừa nhận rằng tài sản không chỉ giới hạn ở hình thức pháp lý, chúng ta có thể quan sát thực nghiệm nhiều cách mà tổ chức, cũng như những cá nhân tạo nên nó, gán ghép, chiếm đoạt, cho, mượn, v.v., công việc và các hoạt động khiến tổ chức hoạt động và thực sự tồn tại như một thực thể. Công trình của Nicolas Bencherki đã được công bố, cùng với những công trình khác, trên Tạp chí Quản lý Học viện, Quan hệ Con người, Nghiên cứu Tổ chức, Quý san Truyền thông Quản lý, Tạp chí Truyền thông và Nghiên cứu và Thực hành Truyền thông, và được trình bày thường xuyên, bao gồm tại Hiệp hội Truyền thông Quốc tế và tại hội nghị thường niên của Nhóm Nghiên cứu Tổ chức Châu Âu. Nicolas Bencherki là thành viên ban biên tập các tạp chí Communication et professionalisation, Management Communication Quarterly và Organization Studies, đồng thời là điều phối viên của nhóm công tác thường trực “Truyền thông, Biểu diễn và Tổ chức” thuộc Nhóm nghiên cứu tổ chức châu Âu.
References
Alcadipani, R., & Hassard, J. (2010). Actor–network theory, organizations and critique: Towards a politics of organizing. Organization, 17(4), 419–435.
Amsterdamska, O. (1990). Book review: Surely you are joking, Monsieur Latour! Science, Technology, & Human Values, 15(4), 495–504.
Bardini, T. (2007). Retour sur une (d)ébauche: Une problématique communicationnelle du changement technique. tic & société, 1(1).
Beck, E. N. (2015). The invisible digital identity: Assemblages in digital networks. Computers and Composition, 35, 125–140.
Benoit-Barné, C. (2009). Reflections on science and technology controversies, material recalcitrance and empty reservoirs that suddenly become full. In S. Jacobs (Ed.), Concerning argument. Washington, DC: National Communication Association.
Brummans, B. H. J. M. (2007). Death by document: Tracing the agency of a text. Qualitative Inquiry, 13(5), 711–727.
Besel, R. D. (2011). Opening the “black box” of climate change science: ctor–network theory and rhetorical practice in scientific controversies. Southern Communication Journal, 76(2), 120–136.
Callon, M., Lascoumes, P., & Barthe, Y. (2009). Acting in an uncertain world: An essay on technical democracy. Cambridge, MA: MIT Press.
Czarniawska, B. (2004). On Time, Space, and Action Nets. Organization, 11(6), 773–791.
Law, J., & Callon, M. (1992). The Life and Death of an Aircraft: A Network Analysis of Technical Change. In W. E. Bijker & J. Law (Eds.), Shaping Technology/Building Society: Studies in Sociotechnical Change (pp. 21–52). Cambridge, MA: MIT Press.
Cooren, F. (2004). Textual agency: How texts do things in organizational settings. Organization, 11(373–393).
Cooren, F., & Bencherki, N. (2010). How things do things with words: Ventriloquism, passion and technology. Encyclopaideia, Journal of Phenomenology and Education, 14(28), 35–61.
Cooren, F., & Matte, F. (2010). For a constitutive pragmatics: Obama, Médecins Sans Frontières and the measuring stick. Pragmatics and Society, 1(1), 9–31.
Cooren, F., Bencherki, N., Chaput, M., & Vásquez, C. (2015). The communicative constitution of strategy-making: Exploring fleeting moments of strategy. In D. Golsorkhi, L. Rouleau, D. Seidl, & E. Vaara (Eds.), The Cambridge handbook of strategy as practice (pp. 365–388). Cambridge, UK: Cambridge University Press.
Giddens, A. (1993). New rules of sociological method: A positive critique of interpretative sociologies. Stanford, CA: Stanford University Press.
Kuhn, T. (2008). A communicative theory of the firm: Developing an alternative perspective on intra-organizational power and stakeholder relationships. Organization Studies, 29(8–9), 1227–1254.
Latour, B. (1987). Science in action: How to follow scientists and engineers through society. Cambridge, MA: Harvard University Press.
Latour, B. (1996). On interobjectivity. Mind, Culture, and Activity, 3(4), 228–245.
Latour, B. (2005). Reassembling the social: An introduction to actor–network theory. Oxford, UK: Oxford University Press.
Latour, B. (2011). Networks, societies, spheres: Reflections of an actor–network theorist. International Journal of Communication, 5, 796–810.
Latour, B. (2013). “What’s the story?” Organizing as a mode of existence. In D. Robichaud & F. Cooren (Eds.), Organization and organizing: Materiality, agency and discourse (pp. 37–51). New York: Routledge.
Latour, B., & Woolgar, S. (1979). Laboratory life: The social construction of scientific facts. Beverly Hills, CA: Sage.
LaVigne, M. (2003). Mobilizing actors in an intergovernmental collaboration: an actor-network theory approach. State University of New York at Albany, Albany, NY.
McPhee, R. D., & Seibold, D. R. (1999). Responses to the finalist essays. Management Communication Quarterly, 13(2), 327–336.
Putnam, L. L. (2015). Unpacking the dialectic: Alternative views on the discourse–materiality relationship. Journal of Management Studies, 52(5), 706–716.
Rodgers, S. (2015). Foreign objects? Web content management systems, journalistic cultures and the ontology of software. Journalism, 16(1), 10– 26.
Siles, I., & Boczkowski, P. (2012). At the intersection of content and materiality: A texto-material perspective on the use of media technologies. Communication Theory, 22(3), 227–249.
Taylor, J. R., & Van Every, E. J. (1993). The vulnerable fortress: Bureaucratic organization and management in the inf rmation age. Toronto, Canada: University of Toronto Press.
Taylor, J. R., Cooren, F., Giroux, N., & Robichaud, D. (1996). The communicational basis of organization: Between the conversation and the text. Communication Theory, 6(1), 1–39.
Further reading
Contractor, N., Monge, P., & Leonardi, P. M. (2011). Multidimensional networks and the dynamics of sociomateriality: Bringing technology inside the network. Network theory (special section), International Journal of Communication, 5, 39.
Czarniawska, B., & Hernes, T. (Eds.) (2005). Actor–network theory and organizing. Malmö, Sweden: Liber and Copenhagen Business School Press.
Fauré, B., Brummans, B. H. J. M., Giroux, H., & Taylor, J. R. (2010). The calculation of business, or the business of calculation? Accounting as organizing through everyday communication. Human Relations, 63(8), 1249–1273.
Latour, B. (1986). The powers of association. In J. Law (Ed.), Power, action and belief: A new sociology of knowledge? (pp. 264–280). London, UK: Routledge.
Lenoir, T. (1994). Was the last turn the right turn? The semiotic turn and A. J. Greimas. Configurations, 2(1), 119–136.
Leonardi, P. M. (2011). When flexible routines meet flexible technologies: Affordance, constraint, and the imbrication of human and material agencies. MIS Quarterly, 35(1), 147–168.
Plesner, U. (2009). An actor–network perspective on changing work practices: Communication technologies as actants in newswork. Journalism, 10(5), 604–626.
Quattrone, P. (2004). Accounting for God: Accounting and accountability practices in the Society of Jesus (Italy, XVI–XVII centuries). Accounting, Organizations and Society, 29(7), 647–683.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét