Powered By Blogger

Chủ Nhật, 2 tháng 1, 2022

Khảo cổ học và Triết học Wittgenstein (II)

John Bintliff

Người dịch: Hà Hữu Nga

Tóm tắt: Đối với sinh viên khảo cổ học, người thế tục có học thức, giảng viên đại học và nhà khảo cổ học thực địa thực hành chuyên nghiệp, thì khảo cổ học đương đại có nghĩa là một cái gì đó khá khác biệt. Ngành học đó đã bị phân mảnh, và cho dù theo lựa chọn hay sự cần thiết hoặc sở thích, thì việc đọc tài liệu và thường là các công trình nghiên cứu thực tế gắn lin với mỗi cộng đồng này đều là khác biệt. Việc giao tiếp giữa các nhóm này ít hoặc thận chí không có. Mặc dù một tương đối luận hậu hiện đại cực đoan có thể vui mừng trong việc phân tách chủ đề, sao cho cách tiếp cận của mọi người về quá khứ - tuy không có chuyên môncó vẻ lập dị, nhưng cũng đáng giá như các quan niệm truyền thống về phương pháp và lý thuyết có cấu trúc, thì hầu hết các nhà khảo cổ học lại hy vọng giải quyết các khuynh hướng này theo cách quy cho là thấp kém về chuyên môn. Nhưng làm cách nào để chúng ta có thể đạt tới được một chương trình thống nhất như vậy, với các hình thức lý thuyết và thực hành vô cùng đa dạng mà chúng ta thấy được ngày nay? Liệu khảo cổ học có thể là một khoa học nhưng lại từ chối thực chứng luận? Liệu nó có thể là chính trị nhưng lại từ chối thiên hướng chính trị? Nó có thể là một bộ môn thiên về đo lường nhưng lại cho phép chúng ta phục hồi cảm xúc cho ngành học? Nó có thể là đa thanh nhưng lại hành động như một nhà phê bình tỉnh táo về việc lạm dụng quá khứ để tuyên truyền tư tưởng? Một nhà tư tưởng lớn, triết gia Ludwig Wittgenstein, đã bao gồm toàn bộ các vấn đề này trong ngữ đoạn bậc thầy triết học kết thúc mọi triết học” của mình. Trong bài viết này, tôi định trình bày một giải thích ngắn gọn về giải pháp của Wittgenstein cho sự phân mảnh tri ​​thức về thế giới xung quanh chúng ta. Làm thế nào để tất cả điều này giải quyết được các vấn đề lý thuyết và phương pháp luận hiện tại của ngành khảo cổ học sau đó có thể được xử lý nhanh chóng và dễ dàng trong kết luận của bài viết.

Wittgenstein và Lý thuyết Khảo cổ học

Một cuộc diễn tập đối kháng cũ giữa Khảo cổ học Mới và chương trình hậu-quá trình là không hiệu quả, nếu không muốn nói là mệt mỏi, và với tôi, dường như không đưa chúng ta đến đâu cả. Tại sao tất cả các bên tham gia tranh luận không thừa nhận, điều có lẽ khá rõ ràng đối với một kẻ quan sát vô tư từ bên ngoài ngành, rằng có những ý tưởng và cách tiếp cận rất tốt trong cả hai truyền thống. Trên cơ sở này, chúng ta nên tìm cách tạo ra một ngành học thực sự “mở”, bằng cách sử dụng các thế mạnh và tiềm năng đã được thử nghiệm của tất cả các cách thức dẫn đến cái Quá khứ đã được phát triển từ những năm 1960 (và thực sự cả trước đó), để tái tạo một hiểu biết về các xã hội trước đây và về bản thân chúng ta với tư cách là các nhà khoa học xã hội “tò mò ngoái-nhìnquá khứ.

Có lẽ các bạn sẽ phản hồi với các nhà bình luận khác - rằng điều đó không thể xảy ra, rằng trào lưu hậu-quá trình phải chia tay quá trình luận bởi vì quan điểm và phương pháp luận của họ đối lập cơ bản, và nỗ lực tổng hợp chỉ tạo ra một mớ hỗn độn chẳng thể nào tin của những mâu thuẫn gay gắt.

Hãy bắt đầu với Ludwig. Những người trong số các bạn quen thuộc với các bài viết gần đây của tôi về cuộc luận chiến quá trình và hậu-quá trình đều biết rằng tôi coi vị triết gia này đã đưa ra được một giải pháp nguyên gốc và đơn giản đến kinh ngạc cho những xung đột và mâu thuẫn kia. Nó cho phép bạn một cách khá hợp thức và thông qua một quá trình suy luận hợp lý để trở thành cả nhà quá trình lẫn hậu-quá trình - mà không phải hy sinh cam kết của bạn đối với các quan điểm quý báu liên quan đến từng lập trường. Mặt khác, nó thách thức cả hai phía trở nên cởi mở hơn, đa nguyên hơn, so với việc chỉ thể hiện sẵn lòng, và nó giải phóng sinh viên khảo cổ học khỏi các quá trình tuân thủ tư tưởng mà tôi có thể đảm bảo với bạn rằng nhiều người hiện đang phải chịu lệ thuộc vào cả hai phía của sự phân chia.

Như chúng ta vừa thấy, theo Ludwig Wittgenstein, toàn bộ lịch sử triết học là một cuộc tranh cãi khá vô nghĩa về những vấn đề như định nghĩa chính xác các khái niệm, cuộc tranh cãi giữa 'những người duy tâm' và 'những người duy vật' về cách thức đúng đắn để xem. thế giới, v.v. Bằng cách cắt bỏ chiếc nút thắt Gordian [HHN chen ngang: Nút thắt Gordian là một huyền thoại về đô thành Gordion của Phrygia (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) gắn liền với Alexander Đại đế; nó thường được sử dụng như một phép ẩn dụ cho một vấn đề khó giải quyết (gỡ một nút thắt bất khả giải) nhưng lại được cởi dễ dàng khi tìm ra được cách tiếp cận vấn đề; người Phrygia không có vua, nhưng một nhà tiên tri ở Telmissus đã phán rằng người đàn ông sau đây đánh xe bò vào thành sẽ là vua của họ; vậy là một người nông dân tên Gordias đánh xe bò vào thành và ngay lập tức được đưa lên làm vua; để tỏ lòng biết ơn, con trai của ông là Midas đã dâng chiếc xe bò cho thần Phrygian là Sabazios (người Hy Lạp coi là thần Zeus), và buộc nó vào một chiếc cột bằng một nút thắt rắc rối bằng vỏ cây thù du (Cornus mas); sau này nhà sử học La Mã Quintus Curtius Rufus mô tả đó là “một số nút thắt rối rắm chặt khít đến mức không thể nhìn thấy chúng được thắt bằng cách nào”; chiếc xe bò vẫn còn để trong cung điện của các vị vua trước đây của Phrygia tại Gordion cho đến thế kỷ thứ tư TCN, khi Alexander Đại đế đến, lúc này Phrygia đã bị biến thành một tỉnh của Đế chế Ba Tư; một nhà tiên tri đã tuyên bố rằng bất kỳ người nào tháo được những nút thắt rắc rối đó thì tất sẽ trở thành kẻ thống trị toàn châu Á; Alexander Đại đế muốn cởi nút thắt nhưng phải vật lộn mãi; cuối cùng ông suy lý rằng sẽ không có gì khác biệt so với cách cởi nút, vì vậy ông rút kiếm cắt phăng bó dây; trong một phiên bản khác của câu chuyện, Alexander Đại đế đã cởi nút thắt bằng cách kéo chiếc đinh ghim ra khỏi cái ách.] hai thiên niên kỷ rưỡi của một lập luận phi-tiến triển, Wittgenstein muốn thu hút sự chú ý của chúng ta vào những gì thực sự xảy ra khi các “nhà tư tưởng” nói chung, nhưng bằng nhiều thuyết phục khác nhau, nói và viết về một khía cạnh nào đó của thế giới xung quanh họ. Một trường phái mà chúng ta có thể mô tả là “khoa học cứng” hoặc thực chứng luận sẽ tiếp cận tình huống đang nghiên cứu bằng cách sử dụng các thiết bị đo lường, các chương trình phần mềm phân tích, họ muốn mô tả tình huống một cách lý tưởng bằng cách sử dụng lôgarit, mô hình đồ họa hoặc bằng khoa học phi-tham số thời thượng (ví dụ: Lý thuyết Hỗn độn - xem Bintliff 1997) - như một chùm động lực của các quan sát di chuyển vào và ra khỏi cấu trúc và không cấu trúc. Một trường phái khác - ví dụ như trường phái của các nhà hiện tượng luận, ngược lại, sẽ tiếp cận tình huống tương tự đang được nghiên cứu bằng cách cố gắng tái tạo trải nghiệm giác quan và các liên tưởng trong môi trường liên quan, thông qua việc đắm chìm tái kiến tạo cá nhân trong thế giới vật chất của bối cảnh và tái tổng lược bằng trí tưởng tượng của các thế giới xã hội hoặc thế giới cảm xúc mang tính nghi thức. Một lần nữa, một nhà nghiên cứu có cam kết cá nhân mạnh mẽ đối với một hệ tư tưởng cải truyền như Đạo Cơ đốc hoặc chủ nghĩa Mác sẽ tập trung vào những khía cạnh của kịch bản mà sự mặc khải cá nhân và các lực lượng siêu hình, tâm linh có thể tri nhận được, hoặc nơi mà cấu trúc luận kinh tế là một thế lực có sức thuyết phục mạnh mẽ, tương ứng.

Tôi sẽ bảo vệ quyền tự chủ cần thiết của các diễn ngôn này trong nhiệm vụ tạo ra kết quả bằng các khuôn khổ riêng của chúng. Thực tế là bạn có thể, và thường xuyên làm, tiếp cận một nơi phát hiện khảo cổ học với tư cách là một nhà khảo cổ học thực địa với mục đích mô tả các thuộc tính của nó bằng “ngôn ngữ sự vật” trung lập của khoa học. Hành vi đó sẽ không chỉ dẫn cho bạn ít nhất nếu bạn muốn suy nghĩ và hành động, về cách thức mà bạn nên liên hệ những gì mình tìm thấy ở địa điểm đó với nhu cầu của dân cư hiện đại xung quanh. Khi viết ra địa điểm, bạn sẽ nhận ra và chuẩn bị một ấn phẩm kỹ thuật cho các nhà khảo cổ thực địa khác, và một ấn phẩm khác để tạo dựng một cuộc đối thoại có ý nghĩa với các cộng đồng địa phương. Điều này rất đơn giản từ cuộc đàm luận về địa điểm Catalhöyük - nơi mà việc trình bày của Ian Hodder về địa điểm trong các bài giảng và các bài viết là một diễn ngôn về chủ nghĩa thẩm mỹ quan sát các nhà khảo cổ thực địa từ bên ngoài, trái ngược hoàn toàn với tập đầu tiên của cuộc khai quật (Hodder 1996) - một ấn bản sách giáo khoa về khảo cổ học thực địa thực chứng do các nhà kỹ thuật “diễn ngôn-sự vật” chuyên nghiệp chuẩn bị mà Ian sử dụng một cách thông minh để thực hiện công việc thực hành của mình (xem Hassan 1997). Thực sự rất đơn giản, Ian, khi nói rằng những cách tiếp cận này đang thực hiện những công việc rất khác nhau, mỗi công việc đều thú vị, một loại là quá trình luận, còn loại khác là hậu-quá trình, và vô cùng thích hợp để kiên trì cố dương lên một cái ô của tính chủ thể tính vô chính phủ hậu hiện đại đối với mọi thứ và mọi người. Chúng ta cần cả hai quan điểm, nhưng những gì họ làm là không thể so sánh được, cho dù rất cần thiết và bổ sung cho một nền khảo cổ học mở hơn trong thiên niên kỷ tiếp theo.

Tất nhiên, để duy trì luận đề Wittgensteinian, tôi phải thách thức một quan điểm đã được phổ biến rộng rãi, cho rằng mọi cách tiếp cận đều không thể tách rời với mọi cách tiếp cận khác, đến mức là, chẳng hạn, một hành động khảo sát phi chính trị là điều không thể xảy ra. Tôi coi những tuyên bố như vậy chỉ là những khẳng định đóng vai trò tuyên truyền không cần nghi ngờ để thúc đẩy một cách tiếp cận được ưa chuộng, và như nhiều người chỉ trích quan điểm này chỉ ra rõ ràng, tạo ra một lôgic tự chuốc lấy thất bại. Nếu tôi nói rằng mọi quyết định của một nhà khảo cổ học đều mang tính chính trị và không bao giờ là khách quan, nhưng tôi cũng tin rằng không có câu chuyện “đúng” hay một giọng nói duy nhất nào phải là đặc quyền, thì tôi cũng chỉ có thể phun vào các bạn một ý thức hệ chính trị chủ quan, mà tôi cũng chẳng chú ý hơn bất kỳ nhà khảo cổ học nào khác, có thành kiến ​​như vậy, trừ khi bạn chia sẻ lập trường chính trị của tôi ngay từ đầu. Trong thế giới thực (trái ngược với “Thế giới-hội thảo”), có một vực thẳm dễ dàng được duy trì bởi một quyết định có ý thức để làm như vậy, giữa việc cởi mở với các mô hình từ bất kỳ hướng nào và tranh luận chính trị với một đồng nghiệp-khảo cổ học. Hãy tìm cơ sở dữ liệu lịch sử hoặc tiền sử của bạn - một địa điểm hoặc khu vực - điều này không khiến bạn được gắn thương hiệu về mặt chính trị (!), và sử dụng các công cụ “ngôn ngữ sự vật” để khám phá một cơ sở dữ liệu phức tạp. Đồng thời, trong một diễn ngôn khác, nếu bạn muốn tự hỏi mình những câu hỏi thú vị về mặt chính trị nào có thể được giải quyết với cơ sở dữ liệu của bạn, khi nêu rõ các mối quan hệ và động cơ cũng như hy vọng thực tế của bạn trong việc thay đổi thế giới khỏi những hào rãnh liên quan (sic). Cũng giai đoạn này, tôi đang dành phần lớn thời gian cho việc nghiên cứu các bằng chứng về cách bón phân cho cây trồng thời Hy La trong cơ sở dữ liệu của Dự án Boeotia: Tôi thách thức bất cứ kẻ nào giải cấu trúc nổi điều đó về phương diện chính trị.

Vẫn còn lại một cặp câu hỏi cuối cùng. Thứ nhất, nếu chúng ta chấp nhận quyền tự chủ của các phương pháp tiếp cận hoặc diễn ngôn riêng biệt, thì phải chăng điều đó không đồng thời mở tung các cổng lũ - mà giờ đây dường như cả những người quá trình và hậu quá trình đều lo sợ - của thuyết tương đối tổng thể? Nếu tất cả các ý kiến ​​đều được chấp nhận là khả thi, thì chỉ có đúng và chính xác là trong tương lai, các giảng viên khảo cổ học nên dành thời gian giảng bài như nhau để đề xuất các bài giảng về Quá khứ được thể hiện bởi Von Däniken hoặc Henri Le Pen, Chú Alf Phù thủy Trắng hoặc Barbara Cartland, với sự kiên nhẫn và nghiêm túc ngang nhau, luôn ngăn cản sinh viên của mình đưa ra những phê bình mang tính phán xét.

Cái cách mà Wittgenstein quan niệm về “diễn ngôn” giống như một hình thức tranh luận năng động chủ yếu tập trung vào một cách hiểu cụ thể về thế giới, nhưng là một cuộc tranh luận đã phát triển các tiêu chuẩn và phê phán nội tại của riêng nó, các tiêu chí riêng để lập luận hiệu quả. Chúng tôi coi trọng trải nghiệm của Chris Tilley về cự thạch và các di tích tưởng niệm liên quan bởi vì môn hiện tượng luận của anh ấy (Tilley 1994) là một cam kết lớn được cân nhắc kỹ lưỡng hơn so với các hành động tái tạo trí tưởng tượng trước đó, chẳng hạn như những thử nghiệm-suy tư của Collingwood về các động cơ chiến dịch của Caesar từ một chiếc ghế bành thoải mái trong một Đại học Oxford (Bintliff 1988, chống Hodder 1986).

Nếu chúng ta chấp nhận những ý tưởng thấu suốt này từ một người được nhiều người coi là triết gia vĩ đại nhất thế kỷ 20, thì khảo cổ học sẽ có những tác động trực tiếp nào? Chúng ta hãy tách các nguyên tắc đối lập thế hệ và đối cực duy tâm-duy lý hàng thiên niên kỷ thành một loạt các diễn ngôn, trò chơi ngôn ngữ, hoặc một bộ công cụ bổ sung cho nhau. Lịch sử khảo cổ học rõ ràng bộc lộ một loạt cách nhìn về quá khứ đã dao động trong tình thiên vị và phổ biến, còn giờ đây nó xứng đáng có một vị trí trong nhóm chùm diễn ngôn chính phù hợp với một lĩnh vực mang tính đa nguyên luận. Các diễn ngôn này có thể được biện minh thêm thông qua việc so sánh với các ngành học và các chùm liên quan của chúng: i) Diễn ngôn khoa học - đặc trưng cho hầu hết các hoạt động khảo cổ học là việc bộc lộ, đo lường và mô tả “trạng thái sự vụ” trong quá khứ của con người bằng ngôn ngữ “sự vật”; ii) Diễn ngôn sinh học - từ khởi đầu khảo cổ học như một ngành học nghiêm túc vào giữa thế kỷ 19, đã tồn tại một diễn ngôn xem xét hoạt động của con người từ góc độ sinh học người, thích nghi, và gần đây là quan điểm sinh thái học người; iii) Diễn ngôn chức năng luận - hành vi của con người trong quá khứ có thể được hiểu thông qua một quan điểm xuất phát từ nhân học xã hội truyền thống, trong đó các hành động của con người được nhào nặn bởi chọn lọc thích nghi thiên về duy trì các cấu trúc xã hội chung; iv) Diễn ngôn văn hóa luận - chưa bao giờ vắng mặt trong diễn giải khảo cổ học nhưng biến số phổ biến là cách tiếp cận trong đó hành vi của con người chủ yếu được kiểm soát thông qua một kho tàng văn hóa đặc trưng của con người (bằng lời nói, hình ảnh tượng trưng về thế giới); v) Diễn ngôn chính trị - Hành vi của con người, trong quá khứ và hiện tại, có thể được thảo luận bằng trò chơi ngôn ngữ của các lập trường chính trị chính thức và các hệ tư tưởng đã tuyên nêu (ví dụ: chủ nghĩa Mác, nữ quyền luận); và vi) Diễn ngôn tôn giáo - Cách tiếp cận của chúng ta đối với các xã hội trong quá khứ có thể được phân tích như là bằng chứng về các hình thức giao kết với các hiện hữu hoặc lực lượng siêu nhiên.

Câu hỏi thứ hai vẫn cần được trả lời sau khi chấp nhận một quan điểm Wittgensteinian, liên quan đến hành động tổng hợp trong diễn giải khảo cổ học. Nếu các diễn ngôn Wittgensteinian tối hậu không tương xứng, thì loại tự sự nào, nếu có, đã từng có thể được đưa ra cho một xã hội trong quá khứ? Có thể, bạn sẽ nói, những đại tự sự đã lỗi thời và không thực tế ở quy mô lớn. Nhưng thay vào đó, điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đặt một câu hỏi mang tính định hướng-vấn đề hơn: Tại sao một quá trình nhất định lại xảy ra hoặc không xảy ra? Vậy là, có vẻ như tất cả những gì chúng ta có thể làm trong khuôn khổ trò chơi ngôn ngữ, là đăng câu hỏi đó lên hàng loạt chốn riêng rẽ, mà ở mỗi nơi một nhóm các nhà nghiên cứu trình bày các diễn ngôn hoặc cách tiếp cận chủ đạo sẽ xuất ra câu trả lời hiện-đại của họ, để lại cho chúng ta nhiều cách giải thích hoặc phản ứng không ủng hộ hoặc mâu thuẫn với nhau - đơn giản là hoàn toàn không chuyện trò được với nhau. Tôi phải thú nhận rằng điểm yếu này trong Giải pháp của Wittgenstein đã làm tôi bối rối trong một thời gian dài, mặc dù tôi vẫn tin rằng ông đã cắm một tấm biển chỉ đường duy nhất đúng để tạo ra một hiệu năng vượt khỏi tính đa dạng đối kháng trong lý thuyết khảo cổ học hiện thời.

Câu trả lời cho nghịch lý này đến với tôi khi tôi quan tâm đến lịch sử cấu trúc Biên niên hay “Braudelien” (Bintliff 1991). Các nhà biên niên sử kinh điển người Pháp đã lập luận rằng bất kỳ kịch bản lịch sử nào cũng đều là sự kết hợp không thể đoán trước của các lực lượng lịch sử vận hành ở các khoảng thời gian khác nhau và thông qua các phương tiện khác nhau: các quá trình được hoàn thành trong một năm hoặc một thế hệ, có lẽ và thường được nhận thức rõ ràng - các quá trình xảy ra trong nhiều thế hệ hoặc nhiều thế kỷ, và thật bất cập nếu có chút nào thuộc về ý thức tích cực của các tác nhân lịch sử đương đại - cuối cùng là các quá trình cực kỳ dài hạn và thường chưa được nhận thức trải dài hàng thiên niên kỷ hoặc hàng chục thiên niên kỷ. Các quá trình này có thể hoạt động theo những cách rất đa dạng - tác động đến các hình thức sử dụng đất của một công nghệ truyền bá hoặc một loạt các loại cây trồng mới, sự chuyển đổi kinh tế học gắn liền với đạo đức làm việc của Đạo Tin lành, v.v. Do đó, các sự kiện, xu hướng lịch sử (và cả tiền sử) là một mạng lưới kết hợp không có kế hoạch và tương tác không thể đoán trước của các nhân tố hoặc lực lượng “không thể đối sánh được”. Tuy nhiên, những sự kiện và xu hướng này là các Kết quả thực sự. Tương tự như vậy, hầu hết những kẻ tham gia vào các cuộc tranh luận lịch sử và khảo cổ học về việc diễn giải quá khứ dường như đều thừa nhận rằng các giải thích phải được tạo ra bằng cách sử dụng nhiều giọng nói, phương pháp và loại thông tin khác nhau. Sẽ là sai lầm khi tin rằng bất kỳ một diễn ngôn nào cũng có thể đưa ra trước nhân tố chi phối thúc đẩy một sự kiện hoặc xu hướng cụ thể trong quá khứ - nếu bất kỳ một nhân tố nào cũng có khả năng thúc đẩy bằng bất cứ cách nào. Thay vào đó, chúng ta có thể mong đợi lắng nghe sức nặng mà mỗi diễn ngôn có thể đóng góp trong việc giải thích nguyên do cho các đặc điểm cụ thể của một tình huống nhất định trong quá khứ, trước khi cố gắng mô tả một cấu trúc tương tác tích hợp các “tay chơi” thuyết phục nhất và gần đúng nhất với kịch bản được quan sát.

Từ lập luận này, tôi tin rằng một điển hình mạnh mẽ có thể được đưa ra để thách thức hầu hết các lập trường lý thuyết khảo cổ học hiện tại bằng những giải thích a priori tiên nghiệm đặc quyền. Ví dụ, mô hình thích ứng được các nhà khảo cổ học sinh thái ưa chuộng bắt đầu bằng cách giả định rằng về cơ bản bất kỳ xu hướng nào cũng bị mắc kẹt bởi hấp lực vào một chiến lược sinh tồn phù hợp nhất, trong khi mô hình “tác nhân xã hội” thịnh hành với các nhà khảo cổ học hậu quá  trình lại giả định rằng hình thức xã hội chủ yếu được kiểm soát thông qua các hành vi có ý thức của cá nhân thành viên trong xã hội đó. Tôi coi tất cả những loại triết học như vậy là những xác quyết cho rằng trong điều kiện hoàn hảo nhất cũng chỉ là những mô hình, mà giá trị duy nhất của nó là cùng cấp độ với một loạt mô hình khá khác nhau và thể hiện sức mạnh giải thích của chúng trong việc giải thích nguyên nhân các đặc điểm được chọn của kịch bản khảo cổ học đang được xem xét. Giờ đây có thể hy vọng rằng một kịch bản tiền sử / lịch sử có thể được tái tạo với một chùm tay chơi lớn rất khác so với kịch bản tiếp theo. Điều này đúng hơn là đòi hỏi chúng ta phải thực sự cởi mở với những điều không mong đợi, và thậm chí cả những lý thuyết hay mô hình không được chào đón. Hẳn là vậy! Điều đó cũng có nghĩa là các nhà khảo cổ học lý thuyết được khuyến khích tìm đọc một cách cởi mở ở Foucault, Derrida cả Freud, Jung, Darwin, Stephen Jay Gould, Braudel, Teilhard de Chardin, Nietzsche (và tất nhiên là ... Wittgenstein).

_________________________________________

Nguồn: Bintliff, John (2000).  Archaeology and the philosophy of Wittgenstein, published in C. Holtorf & H. Karlsson (eds) 2000. Philosophy and Archaeological Practice. Perspectives for the 21" Century, pp 153-172. Göteborg: Bricoleur Press.

Tác giả: John Bintliff là giáo sư Khảo cổ học Cổ điển, sinh ra ở London năm 1949 và học ngành Khảo cổ học và Nhân học tại Đại học Cambridge, nơi ông đã hoàn thành Luận án Tiến sĩ vào năm 1977 về tiền sử lịch sử định cư của con người ở Hy Lạp. Ông trở thành Giảng viên sau đó là Giảng viên cao cấp về Khảo cổ học tại Đại học Bradford, nơi ông dạy từ năm 1977, sau đó chuyển đến Đại học Durham với tư cách là Phó Giáo sư Khảo cổ học vào năm 1990, cho đến khi chuyển đến Leiden vào năm 1999. Năm 1988, ông được bầu làm Uỷ viên của Hiệp hội của Cổ vật. Từ năm 1978, ông là đồng giám đốc (với Anthony Snodgrass, Đại học Cambridge) của Dự án Boeotia, một chương trình cảnh quan liên ngành khảo sát diễn tiến của khu định cư ở Trung Hy Lạp. Các nghiên cứu của ông bao gồm Khảo cổ học Hy Lạp từ thời Tiền sử đến thời Hậu Trung đại, Khảo cổ Địa Trung Hải từ thời Tiền sử đến thời Hậu Trung đại, Khảo cổ học cảnh quan và Lý thuyết khảo cổ học.

References

Bintliff, J. (1988) Review of contemporary perspectives on the 'meaning' of the past. In Bintliff, J. (ed.) Extracting Meaning from the Past. Oxford: Oxbow Books, 3-36.

Bintliff, J. (ed.) (1991) The Annales School and Archaeology. Leicester: Leicester University

Press.

Bintliff, J. (1993) Why Indiana Jones is smarter than the Post-Processualists. Norwegian

Archaeological Review 26: 91 -100.

Bintliff, J. (1995) 'Whither Archaeology?' revisited. In Kuna, M. and Venclova, N. (eds) Whither Archaeology? Papers in Honour of Evzen Neustupny. Institute of Archaeology, Prague, 24-35.

Bintliff, J. (1997) Catastrophe, chaos and complexity: the death, decay and rebirth of towns from Antiquity to today. Journalof European Archaeology 5: 67-90.

Bintliff, J. (1998) A siege mentality at Lampeter? Let Ludwig in — He's a friend. Archaeological Dialogues 5: 37-43.

Braudel, F. (1972-1973) The Mediterranean and the Mediterranean World in the Age of Philip II, Two volumes. London: Collins.

Curry, M. R. (1991) Postmodernism, language, and the strains of Modernism. Annals of the Association of American Geographers 81: 210-28.

Danto, A. (1990) True Confessions. A review of Ludwig Wittgenstein: The Duty of Genius, by Ray Monk. The Times Literary Supplement, 19-25 October.

Glendinning, S. (1998) On Being with Others: Heidegger, Derrida, Wittgenstein. London:

Routledge.

Hassan, F. (1997) Beyond the surface: comments on Hodder's 'reflexive excavation methodology'. Antiquity 71: 1020-5.

Heidegger, M. (1962) Beingand Time. Oxford: Blackwell.

Heidegger, M. (1971) "...Poetically man dwells..." In Heidegger, M. Poetry, Language, Thought. New York: Harper and Row, 211-29.

Hodder, I. (1986) Reading the Past. Cambridge: Cambridge University Press.

Hodder, I. (ed.) (1996) On the Surface. Catalhöyük 1993-5. Monograph of the Cambridge McDonald Institute and The British Institute of Archaeology at Ankara.

Monk, R. (1990) Ludwig Wittgenstein: The Duty of Genius. London: Jonathan Cape.

Taylor, C. (1985) Human Agency and Language: Philosophical Papers 1. Cambridge: Cambridge University Press.

Taylor, C. (1992) Heidegger, language, and ecology. In Dreyfus, H. and Hall, H. (eds) Heidegger: A Critical Reader. Oxford: Blackwell, 247-69.

Tilley, C. (1994) The Phenomenology of Landscape. Places, Paths and Monuments. Oxford:

Tyerman Williams, J. (1995) Pooh and the Philosophers. London: Methuen.

Wittgenstein, L. (1922) Tractatus Logico-Philosophicus. London: Routledge.

Wittgenstein, L. (1953) Philosophical Investigations. Oxford: Blackwell.

 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét