Powered By Blogger

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2024

Kiến tạo ổ và nghiên cứu biến đổi văn hóa trong nhân học (I)

 Emily A. Schultz

Người dịch: Hà Hữu Nga

Tóm tắt: Nhiều nhà nhân chủng học Bắc Mỹ vẫn còn nghi ngờ sâu sắc về những nỗ lực lý thuyết hóa sự tiến hóa của văn hóa, xét đến di sản trong ngành học của chúng ta về các lý thuyết trì trệ thế kỷ 19 về sự tiến hóa văn hóa được định hình bởi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khoa học. Vào cuối thế kỷ 20, một số nhà lý thuyết đã cố gắng thoát khỏi di sản này bằng cách sử dụng các mô hình chính thức lấy từ sinh học dân số tân Darwin để khái niệm lại các quá trình tiến hóa văn hóa, nhưng những cách tiếp cận gần đây hơn này được coi là không thỏa đáng vì những lý do riêng của chúng. Ví dụ, sự đồng tiến hóa gen-văn hóa và lý thuyết kế thừa kép có sức hấp dẫn hạn chế đối với nhiều nhà nhân học văn hóa đương đại vì những lý thuyết này dựa trên các định nghĩa về văn hóa và các giả định về cá nhân con người và các nhóm xã hội mà nhiều nhà nhân học văn hóa không còn thấy thuyết phục nữa. Ngược lại, Lý thuyết Kiến tạo ổ có vẻ hứa hẹn hơn như một khuôn khổ để kết nối sự thay đổi văn hóa với sự thay đổi sinh học và sinh thái. Tuy nhiên, các đặc điểm sáng tạo của Kiến tạo ổ cùng tồn tại một cách khó khăn cùng với các đặc điểm có vấn đề giống nhau hạn chế tính hữu ích của sự đồng tiến hóa gen-văn hóa và lý thuyết kế thừa kép trong nhân học văn hóa. Bài viết này thảo luận về những lo ngại của nhân học về Lý thuyết Kiến tạo ổ, nhưng cũng gợi ý những cách thức có thể được giảm bớt nếu Lý thuyết Kiến tạo ổ kết hợp những hiểu biết từ lý thuyết hệ thống phát triển [Developmental Systems Theory] và Lý thuyết Mạng lưới Tác nhân [Actor Network Theory].

Giới thiệu

Nhân học Bắc Mỹ bắt đầu như một ngành học thuật quan tâm đến việc giải thích cả quá trình tiến hóa sinh học và văn hóa, nhưng những nỗ lực ban đầu này có một lịch sử đầy biến động, khiến nhiều nhà nhân học đương đại nghi ngờ những nỗ lực gần đây hơn nhằm lý thuyết hóa về quá trình tiến hóa văn hóa. Vào cuối thế kỷ XIX, khi ngành học của chúng ta mới bắt đầu hình thành, một quan điểm mà ngày nay được gọi là [tr.304] “Chủ nghĩa Phân biệt Chủng tộc Khoa học” [Scientific Racism] đã huy động dữ liệu dân tộc học và lịch sử để lập luận rằng các giai đoạn tiến hóa văn hóa ngày càng tiên tiến hơn có thể liên quan đến các quần thể người tiến bộ hơn, có kiểu hình riêng biệt hơn được gọi là “chủng tộc”. Những quan điểm này được cả bên trong và bên ngoài ngành nhân học ủng hộ, và sẽ được kêu gọi vào một phần ba đầu tiên của thế kỷ XX để biện minh cho các nguyên lý của sinh học Đức Quốc xã. Tuy nhiên, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khoa học cũng bị phản đối trong ngành nhân học Franz Boas đã nổi tiếng thách thức các tuyên bố của những người kết nối các giai đoạn khác nhau của quá trình tiến hóa văn hóa với các thành tựu sinh học của các nhóm chủng tộc khác nhau. Ông cũng tiếp tục chống lại cái gọi là “Những người truyền bá luận” [diffusionists], là nhóm người ủng hộ quan điểm đối lập liên kết sự thay đổi văn hóa với làn sóng đổi mới văn hóa lan rộng bắt nguồn từ một số xã hội sáng tạo khác thường. Có một giả định về sự khác biệt về chủng tộc cũng được đưa vào quan điểm của truyền bá luận: như Alan Barnard chỉ ra, truyền bá luận dựa trên giả định rằng hầu hết các quần thể con người đều không có khả năng sáng tạo, kém hơn những người “giàu văn hóa” mà những sáng kiến ​​của họ đã được họ sao chép một cách có hệ thống (Barnard 2000, 47)

Boas và các học trò của ông được ghi nhận vì đã vạch trần điểm yếu của cả những người theo thuyết tiến hóa văn hóa cực đoan đơn tuyến và những người theo truyền bá luận văn hóa cực đoan, và vì đã chuyển hướng trọng tâm của dân tộc học sang việc ghi chép lại lịch sử văn hóa cụ thể của những dân tộc cụ thể, một cách tiếp cận được gọi là “chủ nghĩa đặc thù lịch sử” [historical particularism]. Mặc dù Boas chỉ trích gay gắt nhân học thể chất thời bấy giờ, tập trung vào phân loại chủng tộc, ông vẫn không từ bỏ mối quan tâm đến các mô hình phát triển sinh học mà các nhóm người khác nhau trải qua trong các bối cảnh văn hóa và địa lý khác nhau. Ví dụ, công trình ghi chép lại những thay đổi về hình dạng đầu mà con cái của những người nhập cư trải qua đã làm suy yếu các giả định lâu đời cho rằng hình dạng đầu là một chỉ báo “cứng” về tư cách thành viên chủng tộc, và các kết quả của ông đã vượt qua kiểm nghiệm của thời gian, bất chấp các thách thức (Gravlee et al. 2003a; 2003b).

Di sản của tiến hóa luận thế kỷ XIX trong nhân học Bắc Mỹ và sự chỉ trích của Boas về di sản đó đã được các nhà nhân học diễn giải khác nhau, cả trong thời gian Boas còn sống và sau đó. Đặc biệt, di sản này đã ảnh hưởng đến thiện chí của nhiều nhà nhân học ngay cả khi cho rằng văn hóa có thể tiến hóa, vì lo sợ là bất kỳ cân nhắc nào như vậy chắc chắn sẽ bị vấy bẩn bởi tình trạng trì trệ [stagism] và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của lý thuyết nhân học trước Thế chiến thứ hai (ví dụ: Yanagisako 2005). Sau chiến tranh, nhiều nhà nhân chủng học đã đi theo Sherwood Washburn, bác bỏ nhân học thể chất tập trung vào chủng tộc trong quá khứ và chấp nhận hướng đi mới do tổng hợp tiến hóa đưa ra. Phù hợp với các nguyên lý được các tác giả của tổng hợp như Theodosius Dobzhansky đưa ra, các quá trình tiến hóa được các nhà sinh học quần thể nghiên cứu được coi là khá khác biệt so với các quá trình biến đổi văn hóa (Ingold 2007, 13). Tuy nhiên, sau năm 1975, “tổng hợp mới” của [tr.305] xã hội học đã cố gắng giải thích văn hóa theo thuật ngữ chọn lọc gen. Mặc dù nhiều nhà nhân học bị thu hút bởi sinh học xã hội [sociobiology] (hoặc bởi kẻ kế nhiệm của nó, tâm lý học tiến hóa), nhiều người khác vẫn cảnh giác với những nỗ lực này, vì thấy nó có vẻ quá giản lược. Vào những năm 1980 và 1990, lý thuyết di truyền kép và lý thuyết đồng tiến hóa gen-văn hóa đã sử dụng một cách thuyết phục các mô hình sinh học dân số để chứng minh những hạn chế của lý luận sinh học xã hội về văn hóa; kết quả là, sự khác biệt giữa các quá trình văn hóa và các quá trình di truyền dường như không còn bị nghi ngờ nữa. Đồng thời, những động thái này không làm dịu đi các nhà nhân học, những người vẫn tiếp tục phản đối rằng các mô hình toán học về tiến hóa văn hóa kết hợp các giả định lỗi thời và có vấn đề về văn hóa, cá nhân con người và các nhóm xã hội.

Trong một thời gian dài, những lo ngại này đã khiến nhiều nhà nhân học phải vật lộn với “thế tiến thoái lưỡng nan chống phản tiến hóa luận” [“anti-antievolutionism dilemma”]: trong khi họ vẫn cam kết với tiến hóa như một quá trình tự nhiên, họ thấy khó khẳng định phiên bản bá quyền hiện tại của tiến hóa luận (Schultz 2009). Tim Ingold đã giúp tìm ra cách thoát khỏi tình thế tiến thoái lưỡng nan này với cuộc khám phá tiên phong của ông về các giải pháp thay thế “bất đồng chính kiến” cho chủ thuyết chọn lọc gen trong sinh học (2000; 2007; 2011). Trong những năm gần đây, ngày càng nhiều nhà nhân học tìm thấy những cách tiếp cận có giá trị đối với quá trình tiến hóa trong các lĩnh vực sinh học lý thuyết vượt ngoài “tổng hợp tiến hóa” [evolutionary synthesis] của những năm 1930 và 1940. Ngày nay, các lĩnh vực này bao gồm sinh học phát triển tiến hóa ("evo-devo") [evolutionary development biology], tính dẻo [plasticity] và sự thích nghi [accommodation], kiến tạo ổ, kế thừa biểu sinh, lý thuyết sao chép, khả năng tiến hóa, chọn lọc đa cấp và tiến hóa bộ gen (Pigliucci và Müller 2010, 11, Hình 11). Mô hình “kế thừa bộ ba” về kiến tạo ổ sinh thái [“triple inheritance” model of niche construction] ban đầu được Odling-Smee, Laland và Feldman (2003) xây dựng, đưa ra cách kết nối sự thay đổi văn hóa với sự thay đổi sinh học và sinh thái theo những cách không gợi lại quan điểm mất uy tín liên quan đến chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khoa học.

Một đặc điểm được đánh giá cao của mô hình kiến tạo ổ sinh thái này là cách nó đưa các sinh vật trở lại cái viễn cảnh với tư cách là những tác nhân trong quá trình tiến hóa, một động thái đã quá hạn từ lâu mà vẫn được chào đón nồng nhiệt nhất. Tuy nhiên, cũng có ý nghĩa không kém đối với nhiều nhà nhân học là cách mà mô hình kiến tạo ổ sinh thái này đưa các hiện vật vào cái viễn cảnh đó. Lý thuyết di truyền bộ ba [Triple inheritance theory] khẳng định rằng các tác vật [artifacts] đóng vai trò trong các quá trình tiến hóa khác biệt với các yếu tố “thông tin” [“informational” factors] trong quá trình tiến hóa, chẳng hạn như gen và “meme” (tức là các biến thể văn hóa giống như đơn vị) [unit-like cultural variants]. Do đó, lý thuyết kế thừa bộ ba lập luận một cách thuyết phục chống lại các lý thuyết kiểu hình mở rộng vốn coi cả sinh vật và các tác vật mà chúng tạo ra là kết quả của hoạt động gen. Lý thuyết kế thừa bộ ba cũng thách thức các mô hình kế thừa kép về sự tiến hóa văn hóa, vốn xử lý kém văn hóa vật chất và giới hạn “văn hóa” vào các niềm tin, ý nghĩa và giá trị “chủ yếu nằm trong đầu mọi người” (Richerson và Boyd 2005).

[Tr.306] Lý thuyết kế thừa bộ ba cộng hưởng với sự quan tâm ngày càng tăng đối với văn hóa vật chất đã lan rộng ra ngoài khảo cổ học vào tất cả các lĩnh vực nhân học. Nhiều nhà nhân học đang bổ sung thêm kiến tạo ổ sinh thái vào bộ công cụ lý thuyết của họ, đôi khi tùy chỉnh nó để thực hiện công việc nhân học theo cách mà những người sáng lập ra lý thuyết này không hình dung ra. Đồng thời, một số nhà lý thuyết kiến tạo ổ sinh thái trong sinh học tiến hóa đã thể hiện sự quan tâm đến việc xây dựng mối quan hệ với các học giả trong các ngành như xã hội học và nhân học. Một nguồn gây xung đột (Tsing 2005) chắc chắn sẽ là quyết định gần đây của những người sáng lập ra lý thuyết kiến tạo ổ sinh thái là rút lui khỏi mô hình kế thừa bộ ba, một vấn đề mà tôi sẽ đề cập dưới đây. Theo quan điểm nhân học, động thái này thật đáng thất vọng, nhưng cuối cùng có thể không quan trọng: nếu các nhà nhân học thấy mô hình kế thừa bộ ba của kiến tạo ổ sinh thái hữu ích, họ sẽ tiếp tục phát triển nó theo cách riêng của họ, không khác gì cách khái niệm nhân học về văn hóa đã được các nhà lý thuyết trong các ngành khác ngoài nhân học tiếp thu và đưa vào sử dụng theo những cách mới. Nhưng tôi không loại trừ mọi khả năng hòa giải. Bài viết này gợi ý những cách mà lý thuyết kiến tạo ổ sinh thái có thể được xây dựng lại để khắc phục sự ma sát và thiết lập các kết nối khó xử giữa các khác biệt.

Chuyên luận của tôi có hai phần. Trong Phần I, tôi bảo vệ những tuyên bố táo bạo, ban đầu của mô hình kế thừa bộ ba của kiến tạo ổ sinh thái, mô hình này trao cho các tác vật quyền lợi của chúng. Sử dụng các ví dụ từ nhân học sinh học, khảo cổ học và nhân học xã hội văn hóa, tôi chỉ ra cách thức mà các nhà nhân học đang sử dụng lý thuyết kiến tạo ổ sinh thái, không phải lúc nào cũng theo cách mà những người sáng tạo ra nó dự định, mà theo cách vẫn giữ được sự ngang bằng đối với các tác vật trong khi mở rộng lý thuyết về cả quy mô và phạm vi. Trong Phần II, tôi xem xét những nỗ lực của một số nhà lý thuyết kiến tạo ổ sinh thái để giải quyết những lo ngại mà các nhà nhân học và các nhà khoa học xã hội khác đã nêu ra về lý thuyết của họ. Sau đó, tôi đưa ra đề xuất của riêng mình về lý thuyết kiến tạo ổ sinh thái “mở rộng” liên kết nhân học và sinh học tiến hóa có thể như thế nào, gợi ý rằng hai khuôn khổ lý thuyết phù hợp nhất để hiện thực hóa liên minh này là lý thuyết hệ thống phát triển [tr.307] (phù hợp với các khảo sát theo phong cách Boasian về sự phát triển văn hóa sinh học của con người hiện đang được theo đuổi trong nhân học sinh học đương đại) và lý thuyết mạng tác nhân (đã có tác động đáng kể trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu nhân học). Nếu sự cộng tác này thành công, liệu kết quả có nên được định tính là “phát triển”, là “tiến hóa” hay là một thứ gì đó hoàn toàn khác hay không, thì vẫn chưa được xác định.

Phần I

Như đã lưu ý ở trên, nhiều nhà nhân học đương đại chỉ trích những nỗ lực hiện tại nhằm lý thuyết hóa sự tiến hóa văn hóa vì họ lo ngại về sự hồi sinh của một số phiên bản của tình trạng trì trệ văn hóa liên quan đến chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khoa học. Nhận thức được di sản này, những người ủng hộ lý thuyết kế thừa kép và sự đồng tiến hóa gen-văn hóa đã cẩn thận xây dựng các lý thuyết của họ về sự tiến hóa văn hóa từ các tài liệu do Tổng hợp tiến hóa hiện đại cung cấp. Theo cách này, lý thuyết kế thừa kép nổi tiếng là có thể sử dụng các mô hình toán học từ sinh học quần thể để chứng minh rằng trong một số điều kiện môi trường nhất định, văn hóa (được coi là các đơn vị biến thể văn hóa tương tự như gen) có thể được ưu tiên bởi chọn lọc tự nhiên (Boyd và Richerson 1985). Nhưng trong khi những nỗ lực này có thể nói về sự tiến hóa văn hóa theo những cách không làm sống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khoa học, thì chúng vẫn còn nhiều vấn đề vì những cách mà các hoạt động văn hóa của con người - và con người - bị bóp méo để phù hợp với yêu cầu của các mô hình toán học. Vì những lý do này, nhà triết học sinh học Tim Lewens gọi lý thuyết kế thừa kép là “lý thuyết động học văn hóa” [the kinetic theory of culture] bằng cách tương tự với lý thuyết khí động học [the kinetic theory of gases], và ông nhận xét - theo đánh giá của tôi là đúng - rằng các nhà nhân học và những người khác vẫn thù địch với lý thuyết này không phải vì họ nghi ngờ về tính hợp lệ của lý thuyết tiến hóa nói chung, mà vì họ phản đối cách sử dụng lý thuyết tiến hóa cụ thể này, nguyên tử hóa văn hóa và thể hiện hành động của con người theo những cách đơn giản hóa, lý tưởng hóa (2013). Những lý giải như vậy dường như chỉ đề cập đến các quá trình văn hóa hời hợt và không thể giải thích được sự xuất hiện và ổn định của các cấu trúc và mạng xã hội văn hóa quy mô lớn trong suốt quá trình (tiền) sử của con người. Như tôi trình bày bên dưới, một số nhà nhân học quan tâm đến những hiện tượng này không chỉ thấy phiên bản di truyền bộ ba của lý thuyết kiến tạo ổ sinh thái hữu ích mà còn thu hút sự chú ý đến những cách thức mà nó có thể được mở rộng để phù hợp hơn với mục đích nhân học.

Ví dụ, nhà sinh-nhân học Agustín Fuentes viết: “kiến tạo ổ sinh thái là việc thay đổi, xây dựng và/hoặc phá hủy các ổ sinh thái thông qua sự tương tác lẫn nhau giữa các sinh vật và môi trường của mình và là một lực lượng quan trọng trong việc cấu trúc biến đổi tiến hóa, cùng với quá trình chọn lọc tự nhiên (Odling-Smee và cộng sự 2003)” (Fuentes 2012, 110). Fuentes đồng tình với quan điểm cho rằng tất cả chúng ta trên trái đất [tr.308] ngày nay đang sống trong kỷ Anthropocene, một kỷ nguyên địa chất mà các hoạt động của con người tác động lớn đến cảnh quan và khí hậu toàn cầu (2012, 102): “Môi trường sống do con người tạo ra xuất hiện thông qua việc kiến tạo ổ sinh thái của con người… Con người tham gia vào cả sự thay đổi sinh thái có chủ đích và là sản phẩm phụ, từ đó ảnh hưởng đến áp lực tiến hóa đối với các loài khác sinh sống trong các hệ sinh thái do con người chiếm giữ (và các hệ sinh thái lân cận). Ở cấp độ toàn cầu, con người là kỹ sư hệ sinh thái ở quy mô lớn nhất, và những hệ sinh thái thay đổi này không chỉ được thừa hưởng bởi các thế hệ con người tiếp theo mà còn bởi tất cả các loài cùng sống trong đó” (2012, 110).

Fuentes đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển một chuyên ngành nghiên cứu có tên là “ethnoprimatology” [tộc loại linh trưởng học], chuyên nghiên cứu mối quan hệ giữa các loài linh trưởng không phải con người (“alloprimates”) và quần thể con người trong nhiều bối cảnh khác nhau trên khắp thế giới. Kiến tạo ổ sinh thái đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu tộc loại linh trưởng học, không chỉ điều tra tác động hoạt động của con người đối với môi trường sống truyền thống của linh trưởng mà còn làm nổi bật những nơi mà các loài linh trưởng khác và con người có lịch sử lâu dài về mối quan hệ bền vững lẫn nhau. Hơn nữa, trong tất cả các bối cảnh này, vai trò đặc biệt của nhiều loại tác vật do con người tạo ra không thể bị bỏ qua:

“Việc xây dựng và mở rộng không gian đô thị, thay đổi cảnh quan rừng để phục vụ mục đích nông nghiệp hoặc các mục đích sử dụng khác, tạo ra đường xá và các hệ thống giao thông khác, và sự gia tăng nhanh chóng về số lượng dân số, cũng như nhu cầu ăn uống của chúng ta, ảnh hưởng đến hệ sinh thái địa phương và khu vực, làm thay đổi các khía cạnh về cấu trúc và chức năng của chúng. Các loài linh trưởng khác có thể thấy mình hoàn toàn đan xen vào các hệ thống như vậy. Việc mở rộng các khu dân cư của con người thành các khu vực chồng lấn với các loài linh trưởng khác, đặc biệt là các khu đô thị hóa mật độ cao, làm tăng loại hình và cường độ các cơ hội tương tác với các loài linh trưởng khác và đồng thời làm thay đổi phạm vi, kiếm ăn và hành vi của các loài linh trưởng. Việc xây dựng đường sá, phá rừng và sản lượng công nghiệp tăng lên có thể ảnh hưởng đến vi khí hậu cục bộ ở cả chế độ nhiệt độ và lượng mưa, thay đổi các mô hình và loại cây trồng phát triển và ra quả ngoài việc thay đổi cảnh quan cấu trúc. Các loài linh trưởng khác sau đó phải thích nghi với hành vi của chúng với các loại hình cấu trúc của con người (Nhà cửa, đường sá, hệ thống xử lý nước thải, v.v.) và các thay đổi về khí hậu và vật lý địa phương, di chuyển ra khỏi khu vực bị ảnh hưởng hoặc chết...Do đó, có vẻ như có một mô hình chọn lọc sinh thái đối với những loài linh trưởng khác, có khả năng cùng tồn tại tốt nhất với con người (ví dụ như khỉ macaque ở Nam và Đông Nam Á, khỉ đầu chó ở Châu Phi cận Sahara) và chọn lọc chống lại những loài không có các khả năng đó (ví dụ như vượn và khỉ lá). Ngày nay, kiến tạo ổ sinh thái của con người và biến đổi khí hậu đi kèm có thể tạo nên áp lực chọn lọc chính đối với các loài linh trưởng khác (Fuentes và Wolfe 2002, Strier 2011) (Fuentes 2012, 110-111).

[Tr.309] Đồng thời, Fuentes thoải mái áp dụng một định nghĩa thông thường hơn về kiến tạo ổ sinh thái để giải quyết các câu hỏi trong sinh-nhân học [biological anthropology], trong đó mô hình toán học chính thức có vẻ phù hợp. Ví dụ, ông và các đồng nghiệp đã sử dụng dữ liệu về các loài vượn người hóa thạch từ Châu Phi và các mô hình chính thức kết hợp kiến tạo ổ để kiểm tra giả thuyết về các yếu tố chịu trách nhiệm cho sự tuyệt chủng của chi Paranthropus [cận người] và sự tồn tại của chi Homo (Fuentes và cộng sự 2010). Cả hai dòng dõi vượn người đều cùng tồn tại ở miền đông và miền nam Châu Phi trong khoảng từ 2,5 đến 1 triệu năm trước và cả hai dường như đều là mục tiêu của cùng một loài săn mồi. Tuy nhiên, Paranthropus đã biến mất khỏi hồ sơ hóa thạch sau khoảng 1 triệu năm trước, trong khi dòng dõi Homo vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Fuentes và các đồng nghiệp của ông đưa ra giả thuyết rằng cấu trúc hốc, dưới hình thức hợp tác xã hội, có thể đã bảo vệ quần thể Homo khỏi bị săn mồi, chuyển nhiều gánh nặng săn mồi hơn sang Paranthropus. Và Paranthropus, chịu mức độ săn mồi gia tăng, nhưng không có sự đệm được cung cấp bởi một ổ kiến tạo hợp tác, cuối cùng sẽ bị đẩy đến tuyệt chủng. Các tác giả kết luận rằng “các khái niệm cơ bản đằng sau mô hình này được hỗ trợ thông qua bằng chứng lý thuyết và hóa thạch” (Fuentes et al. 2010, 440) Khi mô tả phương pháp của mình, họ có điều này để nói (Fuentes et al. 2010, 436).

Kiến tạo ổ được định nghĩa là sự thay đổi của các sinh vật về mối quan hệ chức năng giữa chúng và môi trường của chúng thông qua sự thay đổi tích cực của một trong những yếu tố của môi trường đó. “Thông qua việc kiến tạo ổ, các sinh vật không chỉ ảnh hưởng đến bản chất của thế giới mà còn xác định một phần áp lực chọn lọc mà chúng và con cháu của chúng phải chịu, và chúng làm như vậy theo cách không ngẫu nhiên” … Tiếp cận quá trình tiến hóa của con người bằng cách sử dụng quan điểm mô hình phản hồi trong bối cảnh của lý thuyết kiến tạo ổ (Odling-Smee và cộng sự, 2003) có thể cung cấp một công cụ khái niệm mạnh mẽ và hỗ trợ quan niệm cho rằng việc cải thiện áp lực săn mồi có thể là một lợi ích cho Homo [người] nhưng lại là tai họa cho Paranthropus [cận người].

Các hiểu biết về kiến tạo ổ được sử dụng trong hai ví dụ nghiên cứu này trong nhân học sinh học khác nhau về quy mô và phạm vi, và ví dụ đầu tiên nhấn mạnh vai trò của các tác vật do con người tạo ra trong khi ví dụ thứ hai thì không. Nhưng trong khi sự khác biệt này có thể làm phiền một số nhà lý thuyết chính thức, thì tôi lại tin rằng nó minh họa cách lý thuyết kiến tạo ổ đang được mở rộng theo những cách khiến nó phù hợp để giải quyết những vấn đề mà các nhà nhân học quan tâm. Trên thực tế, nó minh họa cho một dự đoán được đưa ra bởi những người sáng lập ra lý thuyết kiến tạo ổ, khi họ lập luận rằng “hoạt động kiến tạo ổ thường sẽ tạo ra nhiều hình thức phản hồi trên một loạt các thang thời gian” (Laland và cộng sự 2005, 39). Vì văn hóa vật chất gắn liền với quá trình tiến hóa của con người từ trước khi loài Homo sapiens Người khôn ngoan chúng ta xuất hiện, nên mô hình kế thừa bộ ba về kiến tạo ổ cũng có vẻ phù hợp với nghiên cứu trong khảo cổ học nhân học.

[Tr.310] Xét cho cùng, khảo cổ học là một lĩnh vực mà “hiện vật” là trung tâm (ví dụ, Olsen và cộng sự 2012), và trong đó chúng được hình thành rộng rãi để bao gồm không chỉ các vật thể di động mà còn cả các đặc điểm được tái tạo của cảnh quan ở các quy mô khác nhau. Trong một tập hợp các bài báo gần đây bao gồm các ứng dụng của kiến tạo ổ ngoài sinh học tiến hóa, nhà khảo cổ học Felix Reide đã sử dụng rõ ràng mô hình kế thừa bộ ba của kiến tạo ổ (NC) (Reide 2011, 793-794): “Mô hình kiến tạo ổ nhận ra ba phạm vi kế thừa…, đó là di truyền, sinh thái và văn hóa – và khảo cổ học có thể cung cấp thông tin ủy nhiệm về cả ba phạm vi. Dữ liệu khảo cổ học về các truyền thống thủ công có thể được sử dụng để theo dõi sự kế thừa văn hóa, do đó lập biểu đồ các mối quan hệ lịch sử giữa các cộng đồng thầy - trò trong quá khứ…Ngoài ra, nhiều dữ liệu khảo cổ học còn liên quan trực tiếp đến sự biến đổi của con người đối với môi trường sinh học và phi sinh học, cả cục bộ và tạm thời, cũng như ở quy mô địa lý và thời gian lớn hơn.

Trong bài viết của mình, Reide đã tìm cách giải quyết câu hỏi liệu việc thuần hóa chó có thường xuyên liên quan đến sự xuất hiện của nền kinh tế tuần lộc chuyên biệt ở miền nam Scandinavia vào cuối Kỷ Băng hà cuối cùng (khoảng 15.000 năm trước) hay không. Ông đã sắp xếp các thành phần của các tập dữ liệu khảo cổ học từ thời kỳ này thành ba lĩnh vực kế thừa được công nhận bởi lý thuyết kiến tạo ổ, sau đó sử dụng các phương pháp định lượng kết hợp kiến tạo ổ để kiểm tra mối tương quan giữa các lĩnh vực này. Phân tích của ông cho thấy “sự hỗ trợ tích cực có hạn cho... sự tiến hóa có tương quan của việc sử dụng chó thuần hóa làm công cụ hỗ trợ săn bắn/chăn dắt/vận chuyển và sự xuất hiện lặp đi lặp lại của nền kinh tế tuần lộc chuyên biệt. Cả hai đặc điểm đều có thể được hiểu là một chiều góc ổ được kiến tạo và được diễn giải trong khuôn khổ kiến tạo ổ” (2011, 801). Nói cách khác, kết quả của Reide cho thấy rằng “hồ sơ rời rạc về loài chó thuần hóa ở Bắc Âu thời kỳ Băng hà muộn có thể không phải là kết quả của việc bảo tồn kém, mà do thực tế là việc thuần hóa/sử dụng chó không phải là một phần cốt lõi của kho tàng văn hóa tại thời điểm đó”, với hậu quả là các nhóm trước đó đã cố gắng thuần hóa tuần lộc mà không có chó cuối cùng đã thu hẹp và biến mất (2011, 801). Tuy nhiên, mọi thứ lại rất khác đối với các nhóm người sau này chuyển đến môi trường này cùng với những lũ chó thuần hóa và đã thành công trong việc phát triển các hình thức thuần hóa tuần lộc ban đầu (2011, 802).

[Tr.311] Một mặt, các nhà khảo cổ học thường áp dụng các phân tích định lượng dữ liệu của họ khi điều này có vẻ phù hợp, và việc Reide sử dụng lý thuyết kiến tạo ổ trong nghiên cứu này chỉ đơn giản là làm tăng thêm số lượng các lý thuyết định lượng mà ông có thể sử dụng. Mặt khác, Reide cũng nhận thấy rằng các nhà khảo cổ học quan tâm đến những vấn đề vượt khỏi phạm vi bao hàm của các mô hình định lượng thông thường về kiến tạo ổ. Ông chỉ ra rằng các nhà khảo cổ học từ lâu đã phân biệt giữa những gì Wendell Oswalt gọi là “vũ khí/công cụ” và “cơ sở vật chất” (Oswalt 1976). “Theo quan điểm này, văn hóa vật chất phản ánh sự truyền tải thông tin và sử dụng cá nhân, chẳng hạn như đầu mũi tên, giỏ đan hoặc đồ gốm (vũ khí/công cụ), cung cấp thông tin về di sản văn hóa theo nghĩa chặt chẽ” (Reide 2011, 794). Diễn giải “chặt chẽ” này mô hình hóa kiến tạo ổ như một hoạt động do các sinh vật riêng lẻ khởi xướng, truyền lại một môi trường chọn lọc đã được sửa đổi cho các thế hệ tương lai. Một cách giải thích như vậy đã được ưa thích, ví dụ, trong các cuộc thảo luận về kiến tạo ổ của các nhà triết học sinh học, Kim Sterelny (chẳng hạn năm 2003), mặc dù gần đây ông đã bắt đầu rời xa quan điểm này (Sterelny 2012), một điểm mà tôi sẽ quay lại bên dưới. Tuy nhiên, việc giới hạn kiến tạo ổ trong phạm vi hẹp của việc sửa đổi ổ riêng lẻ không bao gồm phạm trù “cơ sở vật chất” của Oswalt: “văn hóa vật chất phản ánh sự truyền tải thông tin và sử dụng tập thể, chẳng hạn như lều trại, cấu trúc nhà ở, bè câu cá, công sự cũng như hệ thống đồng ruộng”, mà Reide cảm thấy cần phải được phân biệt là thuộc về “di sản sinh thái được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” (2011, 794).

Reide đồng ý với Odling-Smee và cộng sự (năm 2003) cố gắng xem các tiện nghi như kiểu hình mở rộng là sai lầm: “Ngoài ra, các đặc điểm như vậy có thể được xem là một phần của kiểu hình mở rộng của con người…nhưng sự liên quan có chọn lọc của họ là thông qua các môi trường đã được sửa đổi, đặc biệt là ở các thế hệ tiếp theo được sinh ra trong một ổ đã được sửa đổi theo một cách nhất định… Hơn nữa, các tiện nghi thường có tuổi thọ sử dụng dài hơn một thế hệ con người và liên tục hoặc định kỳ được sửa đổi và thay đổi. Những sửa đổi sinh thái rõ ràng này không thể dễ dàng liên quan đến kiểu gen của những người không tham gia vào việc tạo lập nên chúng. Thay vào đó, chúng tham chiếu đến kho kiến ​​thức sinh thái được nắm giữ tập thể và việc thực hiện nó: một môi trường đã được sửa đổi tạo nên ổ phát sinh cá thể [ontogenetic niche] cho các thế hệ tiếp theo. (Reide 2011, 794) Tuy nhiên, theo quan điểm nhân học, chiều hướng tập thể này của kiến tạo ổ con người chưa được phát triển đầy đủ trong lý thuyết kiến tạo ổ; như Lewens đã quan sát đối với lý thuyết kế thừa kép, “tập thể” dường như đề cập đến tổng hợp của tất cả các hoạt động kiến tạo ổ cá nhân, và không đưa ra một giải thích nguyên tắc nào để biện minh cho những cách khác nhau mà lao động xã hội của con người phải [tr.312] được huy động để tái tạo các đặc điểm của môi trường vật lý, ở những địa điểm và thời điểm khác nhau, để tạo ra các “phương tiện” của Oswalt.

Trong khi đó, các nhà nhân học đã tự mình khám phá vấn đề này. Ví dụ, Stephen Lansing là một nhà nhân học môi trường đã làm việc nhiều năm trên đảo Bali của Indonesia, kết hợp nghiên cứu dân tộc học và điều tra chung với các đồng nghiệp từ nhiều ngành khác nhau, trong một dự án đang diễn ra để theo dõi sự phát triển và ổn định lịch sử của nền nông nghiệp ruộng bậc thang lúa nước mà hòn đảo này từ lâu đã nổi tiếng. Không giống như các cuộc thảo luận về kiến tạo ổ tập trung vào các nhóm người có sinh kế tước đoạt hoặc chăn nuôi, mà nghiên cứu về kiến tạo ổ ở Bali lại liên quan đến “kiến tạo ổ trong một xã hội phức tạp” (Lansing và Fox 2011, 927). Các nhà nhân học thường định nghĩa các xã hội phức tạp là những xã hội có sự phân chia lâu dài thành các tầng lớp xã hội và cũng được đặc trưng bởi nhiều loại hình chuyên môn hóa thủ công (làm gốm, luyện kim, sản xuất hàng dệt may). Các thành viên của xã hội phức tạp cũng xây dựng những ngôi nhà cố định và các công trình khác hỗ trợ môi trường sống được thiết kế để duy trì và bảo vệ các loài thực vật và động vật đã thuần hóa để duy trì sinh kế. Nền nông nghiệp lúa nước của Bali phụ thuộc vào một mạng lưới các đền nước và các kênh đào, đường hầm, cống dẫn nước và ruộng bậc thang liên quan. Nguồn gốc của nó có từ hàng ngàn năm trước. Lansing và Fox đặt câu hỏi: Liệu đây có phải là một ví dụ về kiến tạo ổ (2011, 927) không?

Câu hỏi phải được đặt ra bởi vì, như họ chỉ ra, “Hiện tại, có rất ít vai trò của quá trình lập kế hoạch có ý thức trong lý thuyết về kiến tạo ổ, lý thuyết này giải thích cấu ​​trúc phức tạp của các môi trường như gò mối là sản phẩm của quá trình chọn lọc của Darwin. Nhưng trong những trường hợp như ruộng bậc thang, vai trò của ý định có ý thức không thể bị bỏ qua” (2011, 927). Ngược lại, các nhà triết học như Hegel và Marx đã giải thích những thành tựu kiến ​​trúc của con người là sản phẩm của ý định có ý thức. Và do đó, vấn đề thách thức ở đây là: “Nếu kiến tạo ổ của con người là để giải thích cho các hiện tượng lịch sử như trường hợp của người Bali, thì trọng tâm phân tích phải được mở rộng để bao gồm các hệ quả trên quy mô toàn cầu của sự đổi mới có ý thức cũng như việc truyền tải các kho thông tin văn hóa hiện có” (2011, 927-928). Cần lưu ý rằng Lansing và Fox không muốn giới hạn văn hóa trong những gì tồn tại “chủ yếu trong đầu mọi người”. Thật vậy, trường hợp thử nghiệm của họ quả là rất phù hợp với định nghĩa của Fuentes về kiến tạo ổ là “việc thay đổi, xây dựng và/hoặc phá hủy các ổ thông qua vô số tương tác giữa các sinh vật và môi trường của mình”.

Một lý thuyết về lịch sử của hệ thống đền nước cho rằng nguồn gốc của nó là công trình của các vị vua Bali; một lý thuyết khác (“mô hình nảy nở”), được hỗ trợ bởi nghiên cứu trước đây của Lansing, lập luận rằng việc tưới tiêu ở Bali đã mở rộng mà không có sự tham gia của một nhóm tinh hoa quyền lực. Theo mô hình thứ hai này, ít nhất là từ thế kỷ thứ mười một trước Công nguyên, các nhóm nông dân bắt đầu tự tổ chức thành các tổ chức cấp cộng đồng gọi là subaks, “các hiệp hội nông dân [tr.313] quản lý nước tưới từ một nguồn chung, chẳng hạn như một con suối hoặc kênh tưới” (Lansing và Fox 2011, 928). Trong bài viết này, Lansing và Fox đề xuất một thử nghiệm mới cho “mô hình nảy nở” của hệ thống đền nước: “nếu việc mở rộng hệ thống thủy lợi được thực hiện bởi chính những người nông dân... thì mô hình nảy nở sẽ dự đoán sự hình thành của các cộng đồng nhỏ nằm dọc theo các hệ thống thủy lợi, với các khu định cư lâu đời nhất nằm ở các cửa thoát nước gần nhất với các đập tràn hoặc suối cổ nhất” (2011, 928). Vì các khu định cư được tổ chức xung quanh các nhóm đàn ông có quan hệ họ hàng, nên Lansing và Fox đã so sánh dữ liệu nhiễm sắc thể Y và mtDNA được thu thập từ các subaks nằm ở hai vùng của Bali, cũng như với một nhóm đối chứng gồm những người đàn ông được chọn ngẫu nhiên từ mỗi vùng địa lý của Bali.

_________________________________________

Nguồn: Schultz, Emily A. (2015). Niche Construction and the Study of Culture Change in Anthropology: Challenges and Prospects. Published in Interdisciplina 3, no 5 (2015), pp. 303-327.

Tác giả: Tiến sĩ Emily Schultz là Giáo sư danh dự về Nhân học tại Đại học St. Cloud State, Minnesota. Được đào tạo thành nhà nhân học “bốn lĩnh vực” tại Đại học Indiana, bà đã thực hiện công tác thực địa dân tộc học ở Cameroon và đã sống và làm việc tại Mỹ Latinh. Chuyên khảo Dialogue at the Margins (Đối thoại ở vùng biên) (1990) của bà sử dụng các văn bản của Benjamin Whorf và Mikhail Bakhtin để làm sáng tỏ các lý thuyết ngôn ngữ của nhau. Trong hai thập kỷ qua, khi trò chuyện với các nhà triết học về sinh học và các nhà sinh học lý thuyết tiến bộ, các ấn phẩm học thuật của bà đã khám phá những cách thức hậu thực chứng mà nhân học đa lĩnh vực có thể được nhận thức và thực hành. Trong tác phẩm này, Lý thuyết hệ thống phát triển, Lý thuyết Kiến tạo ổ và Lý thuyết Mạng Tác nhân đã đóng vai trò trung tâm. Cùng với Robert Lavenda, bà là đồng tác giả của ba cuốn sách giáo khoa nhân học.

References

Barnard, Alan History and Theory in Anthropology Cambridge: Cambridge University Press, 2000

Boyd, Robert, and Peter J Richerson Culture and the Evolutionary Process Chicago: University of Chicago Press, 1985

Callon, Michel «Some Elements of a Sociology of Translation: Domestication of the Scallops and the Fishermen of St Brieuc Bay » In Power, Action and Belief: A New Sociology of Knowledge, edited by John Law, 196-233 London: Routledge, 1986

——— «Techno-Economic Networks and Irreversibility » In A Sociology of Monsters: Essays on Power, Technology and Domination, edited by John Law, 132-65 London: Routledge, 1991

Clark, Andy «Precis of Supersizing the Mind: Embodiment, Action, and Cognitive Extension » Philosophical Studies 152 (2011): 413-16

——— «Supersizing the Mind: Embodiment, Action, and Cognitive Extension » Oxford University Press, New York, 2008

Fuentes, Agustín «Monkeys, Humans and Politics in the Mentawai Islands: No Simple Solutions in a Complex World » In Primates Face to Face: The Conservation Implications of Human and Nonhuman Primate Interconnections, edited by Agustín Fuentes and L D Wolfe, 187-207 Cambridge: Cambridge University Press, 2002

——— «Ethnoprimatology and the Anthropology of the Human-Primate Inter-face » Annual Review of Anthropology 41 (2012): 101-47

——— and L D Wolfe Primates Face to Face: The Conservation Implications of Human and Nonhuman Primate Interconnections Cambridge: Cambridge University Press, 2002

———, Matthew Wyczalkowski and Katherine C MacKinnon «Niche Construction Through Cooperation: A Nonlinear Dynamics Contribution to Modeling Facets of the Evolutionary History in the Genus Homo » Current Anthropology 51, nº 3 (2010): 435-44

Gravlee, Clarence «Race, Biology, and Culture: Rethinking the Connections » In Anthropology of Race, edited by John Hartgan, 21-41 Santa Fe, NM: School for American Research, 2013

———, H Russell Bernard and William Leonard «Boas’s Changes in Bodily Form: The Immigrant Study, Cranial Plasticity, and Boas’s Physical Anthropology » American Anthropologist 105, nº 2 (2003): 326-32

———, H Russell Bernard and William Leonard «Heredity, Environment, and Cranial Form: A Re-Analysis of Boas’s Immigrant Data » American Anthropologist 105, nº 1 (2003): 125-38

Gray, Chris Hables The Cyborg Handbook New York: Routledge, 1995

Griffiths, Paul and Russell Gray «Darwinism and Developmental Systems » In Cycles of Contingency: Developmental Systems and Evolution, edited by Susan Oyama, Paul Griffiths, and Russell Gray, 195-218 Cambridge, MA: MIT Press, 2001

Haraway, Donna J Primate Visions Gender, Race, and Nature in The World of Modern Science, New York: Routlege, 1989

——— Simians, Cyborgs and Women: The Reinvention of Nature New York: Routledge, 1991

——— When Species Meet Minneapolis: University of Minnesota Press, 2008

Hodder, Ian The Leopard’s Tale: Revealing the Mysteries of Çatalhöyük London: Thames & Hudson, 2006

——— Entangled: An Archaeology of the Relationships between Humans and Things NY: John Wiley & Sons, 2012, 264

Hutchins, Will Cognition in the Wild Cambridge, MA: MIT Press, 1995

Ingold, Tim. The Perception of the Environment: Essays on Livelihood, Dwelling &Skill. London; New York: Routledge, 2000

Ingold, Tim Lines: A Brief History London; New York: Routledge, 2007

——— Being Alive: Essays on Movement, Knowledge and Description London; New York: Routledge, 2011

——— «The Trouble with ‘Evolutionary Biology’ » Anthropology Today 2, 23, (2007): 13-17

Kendal, Jeremy «Cultural Niche Construction and Human Learning Environments: Investigating Sociocultural Perspectives » Biological Theory 6 (2011): 241-50

———, Jamshid Tehrani and F J Odling-Smee «Human Niche Construction in Interdisciplinary Focus » Philos. Trans. R. Soc. London. B. Biol. Sci. 366 (2011): 785-92

Laland, Kevin, F J Odling-Smee and Marcus W Feldman «On the Breath and Significance of Niche Construction: A Reply to Griffiths, Okasha and Sterelny » Biol. Phil. 20 (2007): 37-55

———, F J Odling-Smee, W Hoppitt, and Marcus W Feldman «Proximate and Ultimate: A Debate » Biology and Philosophy 28, nº 5 (2013): 719-810

Lansing, J Stephen Perfect Order: Recognizing Complexity in Bali Princeton, N J : Princeton University Press, 2006

——— and Karyn M Fox «Niche Construction on Bali: The Gods of the Countryside » Philosophical Transactions of the Royal Society B 366 (2011): 927-934

Latour, Bruno Reassembling the Social: An Introduction to Actor-Network-theory Oxford; New York: Oxford University Press, 2005

——— «Networks, Societies, Spheres: Reflections of an Actor-Network Theorist International Journal of Communication » International Journal of Communication 5 (2011): 796-810

——— We Have Never Been Modern Harvard University Press, 1993

——— Science in Action: How to Follow Scientists and Engineers through Society Cambridge, Mass : Harvard University Press, 1987

Leonardi, Paul M , Bonnie Nardi and Jannis Kallinikos, (eds ), Materiality and Organizing Oxford: Oxford University Press, 2012

Lewens, Tim «The Kinetic Theory of Culture » Paper presented at the meetings of the International Society for the History, Social Studies, and Philosophy of Biology, 2013

Nardi, Bonnie A «Studying Context: A Comparison of Activity Theory, Situated Action Models, and Distributed Cognition » In Context and Consciousness: Activity Theory and Human-Computer Interactions, edited by Bonnie Nardi, Cambridge, MA: MIT Press, 1996

——— My Life as a Night Elf Priest Ann Arbor: University of Michigan Press, 2010

Odling-Smee, F John, Kevin N Laland and Marcus W Feldman Niche Construction: The Neglected Process in Evolution Princeton: Princeton University Press, 2003

Oswalt, Wendall An Anthropological Analysis of Food-Getting Technology New York: John Wiley and Sons, 1976

Oyama, Susan «Sustainable Development: Living With Systems » Paper presented at meetings of the International Society for History, Philosophy, and Social Studies of Biology, 2011

Pigliucci, Massimo and Gert Miller Evolution: the Extended Synthesis Cambridge, MA: MIT Press, 2010

Reide, Felix «Adaptation and Niche Construction in Human Prehistory: A Case Study from the Southern Scandinavian Late Glacial » Phil. Trans. R. Soc. B 366, 793-808

Richerson, Peter and Robert Boyd Not By Genes Alone: How Culture Transformed Human Evolution Chicago: University of Chicago Press, 2005

Schultz, Emily «Resolving the Anti-Antievolutionism Dilemma: A Brief for Relational Evolutionary Thinking in Anthropology » American Anthropologist 111, 2 (2009): 224-37

——— «Backing Into the Actor Network? Wrestling With the Implications of Niche Construction and Human Cultural History » Paper presented at meetings of the International Society for the History, Philosophy, and Social Studies of Science, 2013

——— «New Perspectives on Organism-Environment Interactions in Anthropology » In Entangled Life, edited by Gillian Barker, Eric Desjardins, and Trevor Pearce, 79-102 Dordrecht: Springer 2013

Sterelny, Kim «Made By Each Other: Organisms and Their Environment » Biology and Philosophy 20 (2005): 21-36

——— The Evolved Apprentice Cambridge, MA: MIT Press, 2012

Strier, Karen «Conservation » In Primates in Perspective, 2nd ed., edited by Christina J Campbell, Agustín Fuentes, Katherine C MacKinnon, Melissa Panger and Simon K Bearder, 664-75 Oxford: Oxford University Press, 2011

Tsing, Anna Lowenhaupt Friction: An Ethnography of Global Connection Princeton, NJ: Princeton University Press, 2005

West, Paige Conservation is Our Government Now: The Politics of Ecology in Papua New Guinea Durham, NC: Duke University Press, 2006

Wheeler, M and A Clark «Culture, Embodiment, and Genes: Unraveling the Triple Helix » Philos Trans R Soc B 363 (2008): 3536-75

Wilson, David Sloan Darwin’s Cathedral: Evolution, Religion and the Nature of Society Chicago: University of Chicago Press, 2002

Yanagisako, Sylvia «Flexible Disciplinarity: Beyond the Americanist Tradition » In Unwrapping the Sacred Bundle: Reflections on the Disciplining of Anthropology, edited by Daniel Segal and Yanagisako, Sylvia, 78-98 Durham, NC: Duke University Press, 2005

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2024

Chính trị Bảo trợ - Khách hàng và Thay đổi Chính trị ở Đông Nam Á (II)

 

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2022

James C. Scott

Người dịch: Hà Hữu Nga

II. Biến đổi trong Quan hệ Người bảo trợ-Khách hàng

Người ta có thể tạo ra những khác biệt gần như vô hạn giữa các mối quan hệ người bảo trợ-khách hàng. Các chiều góc của sự biến đổi xem xét ở đây được lựa chọn bởi vì chúng có vẻ đặc biệt phù hợp với mục tiêu phân tích của chúng tôi là đánh giá những thay đổi trọng tâm trong các mối quan hệ như vậy ở Đông Nam Á. Những khác biệt tương tự cũng cần được phân tích đối với trường hợp các quốc gia tiền công nghiệp khác.

Cơ sở Nguồn lực của Bảo trợ

Một người bảo trợ tiềm năng tập hợp khách hàng trên cơ sở khả năng bảo trợ cho họ. Đối với việc đầu tư tài sản của mình, người bảo trợ kỳ vọng sẽ thu lợi được các nguồn nhân lực - dưới dạng sức mạnh của bổn phận và số lượng khách hàng có nghĩa vụ đối với ông ta. Cơ sở nguồn lực hoặc bản chất của tài sản mà người bảo trợ có thể sử dụng thường rất khác nhau. Cơ sở hữu ích để phân biệt giữa các nguồn lực là tính trực tiếp mà chúng được kiểm soát. Theo nghĩa này, những người bảo trợ có thể dựa vào a) tri ​​thức và kỹ năng của riêng họ, b) quyền kiểm soát trực tiếp tài sản bất động sản cá nhân, hoặc c) quyền kiểm soát gián tiếp đối với tài sản hoặc quyền hạn của những người khác (thường là của công chúng). Các nguồn lực về kỹ năng và tri ​​thức dễ nhận thấy nhất trong các vai trò của luật sư, bác sĩ, người biết chữ, chỉ huy quân sự địa phương, các thầy – có đạo hoặc thế tục. Những người được trang bị những kỹ năng này kiểm soát các nguồn lực khan hiếm hơn là có thể nâng cao địa vị xã hội, sức khỏe hoặc phúc lợi vật chất của những kẻ khác. Vì những nguồn tài nguyên đó dựa vào tri ​​thức nên chúng ít bị hư hỏng hơn những nguồn tài nguyên khác - mặc dù vòng đời của chuyên gia là hữu hạn - nhưng có thể được sử dụng lại nhiều lần mà không bị suy giảm.

Những nguồn lực đó là tương đối, chứ không tuyệt đối, an toàn. Ví dụ, trong trường hợp luật sư và người có học, giá trao đổi của các dịch vụ của họ phụ thuộc vào sự tồn tại liên tục của hệ thống tòa án và sự tôn sùng một truyền thống hiếu học cụ thể, mà cả hai đều phụ thuộc vào những thay đổi. Tương tự như vậy, giá trị của sự bảo vệ của một thủ lĩnh quân sự địa phương cũng dễ bị mất giá khi nhà nước dân tộc đã thiết lập luật pháp và trật tự cho cả địa phương của ông ta. Phụ thuộc vào quyền kiểm soát trực tiếp bất động sản là phương tiện phổ biến thứ hai để tạo dựng được những tập hợp khách hàng. Theo truyền thống, người bảo trợ chủ chốt kiểm soát nguồn đất đai khan hiếm. Những người mà ông ta cho phép canh tác khoảng đất đó với tư cách là người chia sẻ-hoa lợi hoặc người thuê đất trở nên có nghĩa vụ vĩnh viễn đối với ông ta trong việc cung cấp các phương tiện sinh sống của họ. Bất kỳ kẻ kinh doanh nào cũng ở vào lập trường tương tự; với tư cách là chủ của một nhà máy sản xuất thuốc lá, một nhà máy xay xát gạo hoặc một cửa hàng nhỏ, ông ta có thể bắt buộc nhiều người trong số những người có địa vị thấp hơn mà ông ta thuê, người mà ông ta cung cấp tín dụng cho hoặc người mà ông ta cung cấp việc làm phải có nghĩa vụ với ông ta. Nói chung, loại nguồn lực này dễ hỏng hơn các kỹ năng cá nhân. Chỉ những chủ đất có quá nhiều diện tích đất canh tác, một doanh nhân có nhiều việc làm, một chủ cửa hàng có rất nhiều tiền mặt, thì họ đều phải đầu tư cẩn thận những nguồn lực đó để mang lại lợi nhuận tối đa. Hơn nữa, giống như bất kỳ tài sản bất động sản nào, bất động sản tư nhân cũng có thể bị trưng thu hoặc bị hạn chế sử dụng.

Cơ sở tài nguyên thứ ba có sẵn cho khách hàng tiềm năng là thứ có thể được gọi là tài sản gián tiếp, dựa trên-chức vụ. Ở đây, chúng tôi đề cập đến những người bảo trợ tạo dựng tập hợp khách hàng dựa trên sức mạnh của quyền tự do phân phối phần thưởng do một bên thứ ba (các bên) nào đó đặt cho sự tin tưởng của họ. Một trưởng làng sử dụng quyền hạn của mình trong việc phân chia đất đai của công xã cho người nghèo hoặc phân bổ lao động bắt buộc và gánh nặng thuế má để mở rộng tập hợp khách hàng cá nhân của mình có lẽ là một ví dụ điển hình của quan hệ gia trưởng dựa trên-chức vụ truyền thống. Người ta có thể phân loại những người nắm giữ chức vụ tương tự ở các môi trường thuộc địa hoặc đương đại, những người có các loại quyền lực tùy ý đối với việc làm, thăng chức, hỗ trợ, phúc lợi, cấp phép, cho phép và đối với các giá trị khan hiếm khác có thể đóng vai trò là cơ sở của một mạng lưới những người tùng phục theo bổn phận cá nhân. Các chính trị gia và các nhà cai trị sử dụng chức vụ của họ theo cách này để tưởng thưởng cho khách hàng trong khi vi phạm các chuẩn mực chính thức về ứng xử nơi công cộng, tất nhiên đang hành động theo các nhũng lạm.

Cuối cùng, chúng ta nên bổ sung thêm những người nắm giữ các chức vụ thuộc khu vực tư nhân trong khu vực tư như quản lý đồn điền, đại lý thu mua và các ông chủ được thuê theo hợp đồng, những người cũng có thể sử dụng quyền hạn tùy ý của mình để nuôi dưỡng một tập hợp khách hàng. Tài sản gián tiếp dựa trên-chức vụ kém an toàn nhất ở nhiều khía cạnh, vì tính khả dụng của nó phụ thuộc vào tính liên tục vào cái địa vị dẫu sao cũng chỉ là được các bên thứ ba trao cho hoặc thu hồi lại bất kỳ lúc nào. Một chủ đất thường vẫn giữ lại được cơ sở địa phương của mình trong khi một người có chức vụ nào đó có khả năng bị một kẻ khác đánh bại tại các cuộc bầu bán, hoặc chỉ đơn giản là bởi một cuộc tranh giành quyền lực trong nhóm cầm quyền. Bất chấp các rủi ro liên quan, những vị trí này vẫn hấp dẫn bởi vì các nguồn lực được kết nối với nhiều người trong số họ lớn hơn nhiều so với những nguồn lực mà một cá nhân có thể tích lũy trực tiếp. Các loại nguồn lực vừa thảo luận không loại trừ lẫn nhau. Ví dụ, một người bảo trợ thường có một khách hàng có bổn phận đối với ông ta bằng cách trở thành người thuê đất của ông ta và còn bằng cách đảm bảo một khoản vốn vay nông nghiệp thông qua quyền lực của địa vị chủ tịch đảng cầm quyền địa phương của người bảo trợ. Do đó, các nguồn lực củng cố mối quan hệ mang tính chất cặp đôi có thể là vô số - mà vấn đề thường là quyết định những gì là các nguồn lực chiếm ưu thế. Phần lớn có thể áp dụng phân tích tương tự với cụm hoặc mạng khách hàng, vì một người bảo trợ có thể có các khách hàng bị ràng buộc với ông ta bởi các nguồn lực khá khác nhau, và điều quan trọng là phải xác định xem nguồn lực chính là gì để sử dụng làm công cụ kết nối cụm khách hàng lại với nhau.

Cơ sở Tài nguyên của Khách hàng

Với tư cách là thành viên khác của một cặp quan hệ có đi có lại, khách hàng có nghĩa vụ phải cung cấp hỗ trợ và dịch vụ khi người bảo trợ yêu cầu. Sự khác biệt về bản chất của sự hỗ trợ như vậy là một phương tiện khác để phân biệt một cặp quan hệ người bảo trợ-khách hàng với một cặp khác. Ở đây vấn đề cần phải phân biệt là: (1) dịch vụ lao động và hỗ trợ kinh tế do người thuê đất hoặc người làm mướn cung cấp; (2) nhiệm vụ quân sự hoặc các vụ chém giết, chẳng hạn như những vụ việc do các thành viên của một băng nhóm thực hiện cho thủ lĩnh của họ; và (3) các nhiệm vụ chính trị như vận động bầu cử hoặc hoạt động như một người đại diện cho một chính trị gia. Trong phạm vi “nhiệm vụ chính trị”, cần phải tách các nhiệm vụ bầu cử ra khỏi sự trợ giúp chính trị không liên quan đến bầu cử. Cần phải nhấn mạnh thêm là thuật ngữ “khách hàng” có thể bao gồm cả những người ở giữa kim tự tháp quan hệ người bảo trợ-khách hàng - là khách hàng của ai đó có địa vị cao hơn, và là người bảo trợ cho những ai đó có dịa vị thấp hơn. Trong trường hợp này, người bảo trợ cao hơn sẽ quan tâm đến các dịch vụ tiềm năng của khách hàng, mà các dịch vụ đó sẽ bao gồm quy mô, kỹ năng, tài sản và vị thế của chính nhóm tùng phục của riêng người khách hàng cấp dưới. Cũng giống như cặp quan hệ người bảo trợ-khách hàng có thể được phân biệt bằng cơ sở nguồn lực chính của tập hợp khách hàng, do đó, có thể phân loại một cụm người bảo trợ-khách hàng theo mô thức hình thái các dịch vụ khách hàng cho toàn bộ cụm hoặc kim tự tháp quan hệ người bảo trợ-khách hàng.

Cân bằng các Quan hệ Tình cảm và Công cụ

Theo định nghĩa, các mối quan hệ công cụ đóng một vai trò quan trọng trong mối quan hệ người bảo trợ-khách hàng. Tuy nhiên, có thể phân loại các cặp quan hệ như vậy theo mức độ mà các ràng buộc tình cảm cũng tham gia vào mối quan hệ đó. Ở một đầu của chuỗi liên tục này, người ta có thể đặt các ràng buộc người bảo trợ-khách hàng, ngoài đặc tính công cụ của chúng, còn được củng cố bởi các gắn kết tình cảm ngày càng phát triển, chẳng hạn, từ người bảo trợ và khách hàng từng là bạn học, là đồng hương, là họ hàng xa, hay chỉ đơn giản là yêu thương quý mến nhau. Một mặt, phần thưởng tình cảm khả dĩ so sánh cũng có thể bắt nguồn từ việc trao đổi sự tôn quý, và mặt khác, càng cao sang thì trách nhiệm càng lớn trong một mạng vị thế của xã hội nông dân ổn định - phần thưởng có giá trị vượt ra ngoài sự trao đổi vật chất mà chúng thường bao hàm.29 Ở đầu khác của chuỗi, có một mối ràng buộc mang tính cặp đôi gần hơn nhiều với sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ gần như trung tính. Mối quan hệ càng thuần túy mang tính cưỡng chế và càng ít tính hợp thức truyền thống, thì khả năng ràng buộc tình cảm sẽ càng ít. Sự phân biệt này có giá trị phân tích rõ ràng. 

Nếu xem xét toàn bộ những quan hệ tùng phục của một người bảo trợ, chúng ta sẽ có thể phân loại từng loại ràng buộc chiều dọc theo tỷ lệ tình cảm so với phần thưởng công cụ có liên quan. (Tất nhiên, người ta có thể làm điều tương tự đối với các liên minh ngang. Sử dụng tiêu chí này, chúng ta có thể xác định một tập hợp những người đi theo, trong đó tỷ lệ quan hệ tình cảm so với các mối quan hệ công cụ là tương đối cao, có thể phản ánh quan hệ họ hàng xa, mối quan hệ làng xã hoặc hàng xóm cũ hoặc các ràng buộc có thể so sánh được. Lòng trung thành của nhóm người tùng phục này có lẽ ít phụ thuộc vào dòng lợi ích vật chất liên tục, đơn giản bởi vì lòng trung thành của họ một phần dựa trên những trao đổi phi vật chất. Khi vượt ra ngoài quan hệ tùng phục về phần tình cảm đối với những người ủng hộ khác của một người bảo trợ, thì trọng lượng của các quan hệ dụng cụ, thường là vật chất, trở nên tương đối quan trọng hơn. Bản chất của việc đi theo một người - sự cân bằng giữa các mối quan hệ tình cảm với các ràng buộc công cụ buộc khách hàng của ông ta phải có nghĩa vụ với ông ta - có thể cho chúng ta biết điều gì đó về sự ổn định của nó trong các điều kiện khác nhau. Khi một người bảo trợ gia tăng cơ sở nguồn lực vật chất của mình, thì lượng tùng phục mang tính công cụ của ông ta sẽ có xu hướng phát triển nhanh chóng, còn khi ông ta suy giảm nguồn lực vật chất, thì lượng tùng phục kia cũng sẽ giảm đi nhanh chóng, vì lúc đó khách hàng sẽ tìm kiếm một nhà lãnh đạo có triển vọng hơn. Về nguyên tắc, mức độ phụ thuộc vào các khuyến khích vật chất trong phạm vi tùng phục chính là một phẩm chất có thể đo lường bằng cách thiết lập mức độ lớn hơn mức phần thưởng vật chất hiện tại mà một người bảo trợ đối địch phải cung cấp để loại bỏ một số lượng nhất định khách hàng của người bảo trợ khác.

Sự phân biệt tình cảm - công cụ vừa được thực hiện dẫn đến sự phân biệt tương tự, nhưng không giống hệt nhau, giữa nhóm tùng phục hạt nhân và nhóm tùng phục ngoại vi của một người bảo trợ. Những hạng mục này thực sự được phân phối dọc theo một chuỗi liên tục; ở nhóm ngoại vi của một người bảo trợ là những khách hàng tương đối dễ tách rời trong khi nhóm hạt nhân lại là những người có mối gắn bó chặt chẽ hơn với ông ta. Nhóm ngoại vi bao gồm các khách hàng bị ràng buộc phần lớn bởi các phần thưởng công cụ, trong khi nhóm hạt nhân lại bao gồm các khách hàng gắn kết bởi các mối quan hệ tình cảm bền chặt, cũng như các khách hàng bị thu hút bởi một người bảo trợ nhờ vào các mối ràng buộc công cụ mạnh mẽ đến mức các ràng buộc đó dường như không thể phá vỡ.30 Điều đó, thực tế, rốt cuộc là để phân biệt giữa sự tùng phục hầu như không thể cưỡng lại đối với một người bảo trợ và sự sự tùng phục ít ​​nhiều dao động, tùng phục theo kiểu “phù thịnh” (fair-weather) đối với một người bảo trợ. Theo đó, những người bảo trợ có thể được phân biệt bằng kích cỡ nhóm hạt nhân - so với kích cỡ nhóm ngoại vi của họ. Một chủ đất hoặc một doanh nhân nói chung sẽ có một nhóm nhóm hạt nhân khá lớn bao gồm cả bạn bè, người thân của anh ta, v.v. và những người thuê đất hoặc người làm của ông ta. Nhóm hạt nhân này là nhóm theo ông ta ngay từ đầu; tập hợp khách hàng của ông ta có thể phát triển lớn hơn, nhưng lại không có khả năng gắn kết hơn so với nhóm hạt nhân bền chặt này.

Mặt khác, một chính trị gia hoặc quan chức, trừ khi anh ta giàu có một cách kín đáo, còn có khả năng có một nhóm hạt nhân tương đối nhỏ hơn bao gồm chủ yếu là những người mà anh ta có mối ràng buộc tình cảm mạnh mẽ và do đó, còn lại một tỷ lệ tương đối lớn là loại khách hàng “phù thịnh”. Những tai họa may rủi mà một chính trị gia hoặc kẻ cai trị như vậy phải gánh chịu nhiều khả năng được bộc lộ ngay lập tức và bộc lộ hết qua thực trạng suy giảm quy mô khách hàng của ông ta, mà phần lớn là một sự suy giảm có tính toán. Các chính trị gia và quan chức, bởi vì họ có lượng khách hàng thuộc nhóm hạt nhân nhỏ hơn, và bởi vì họ có thể, thông qua chức vụ của mình, thường khai thác các nguồn lực to lớn, có xu hướng có những phẩm chất hoạnh phát (meteoric qualities) với tư cách là những người bảo trợ; ngược lại, chủ đất nếu có lu mờ đi thì vẫn có khả năng tạo ra thứ ánh sáng ổn định hơn.

Cân bằng giữa Tự nguyện và Ép buộc

Có sự khác biệt rõ ràng và quan trọng về mức độ ép buộc liên quan đến mối quan hệ người bảo trợ-khách hàng. Ở một đầu, các khách hàng hầu như không có lựa chọn nào khác ngoài việc đi theo người bảo trợ, là người trực tiếp kiểm soát các phương tiện sinh tồn của họ. Ở đây, người ta có thể đặt một tá điền mà chủ đất của ông ta đảm bảo cung cấp an ninh vật chất, đất đai, nông cụ và hạt giống cho ông ta, trong một bối cảnh xã hội mà đất đai khan hiếm và đầy rẫy bất an. Gần gũi nhất với trung tâm của chuỗi liên tục này có lẽ là các mối ràng buộc giữa các tiểu nông độc lập, những người phụ thuộc vào chủ đất để thu hoạch mùa màng và bán được hoa màu của họ, để thanh toán cho các khoản vay nhỏ và để có được sự hỗ trợ của cảnh sát và chính quyền địa phương. Những ràng buộc như vậy vẫn dựa trên sự bất bình đẳng, nhưng khách hàng cũng có một số năng lực để thương lượng, chứ không chỉ đơn giản là lọt thỏm trong tay người bảo trợ của mình. Cuối cùng, có lẽ là hệ thống bầu cử đã cung cấp cho khách hàng một nguồn lực mới và đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa những người bảo trợ để thu hút được những người đi theo vốn có thể xoay chuyển được kết quả cuộc bầu cử có lợi cho họ. Trong trường hợp này, sự bất bình đẳng về sức mạnh thương lượng càng bị giảm đi và khách hàng gần như trở thành một tác nhân chính trị độc lập mà những yêu cầu của họ sẽ phải được lắng nghê và xem xét đầy đủ từ người bảo trợ của mình. Nói chung, mức độ áp lực của khách hàng trở nên lớn hơn khi các dịch vụ của người bảo trợ mang tính sống còn, khi ông ta thực hiện độc quyền phân phối hàng hóa và nguồn lực của mình và khi ông ta có ít nhu cầu đối với bản thân khách hàng. Quyền tự do của khách hàng được nâng cao nhất khi có nhiều nhà bảo trợ mà dịch vụ của họ không quan trọng và bản thân họ phải cạnh tranh với nhau để tập hợp được một nhóm khách hàng lớn - chẳng hạn như vì mục đích bầu cử. Quyền lực cưỡng chế của người bảo trợ đối với khách hàng của mình càng lớn, thì số phần thưởng mà người bảo trợ phải cung cấp để giữ chân khách hàng càng ít.

Người bảo trợ ở vào vị thế mạnh mẽ sẽ có nhiều khả năng sử dụng các biện pháp khống chế -đe dọa để trừng phạt khách hàng hoặc rút lại các lợi ích mà khách hàng đang hưởng – trong trường hợp người bảo trợ tương đối yếu hơn thì có nhiều khả năng ông ta sẽ đưa ra những lời dụ dỗ - hứa hẹn tưởng thưởng cho khách hàng những lợi ích mà khách hàng hiện không được hưởng. Trong mỗi trường hợp, quyền kiểm soát tối thượng đối với các nguồn lực được sử dụng để đạt được sự tuân thủ của những khách hàng tòng phục, nhưng việc sử dụng các biện pháp trừng phạt cho thấy một trật tự quyền lực cao hơn so với việc sử dụng thủ pháp dụ dỗ. Việc đánh giá về sự cân bằng mang tính cưỡng chế và về tỷ lệ giữa thủ pháp trừng phạt so với thủ pháp dụ dỗ có thể được thực hiện không chỉ đối với một cặp quan hệ mà còn đối với một cụm hoặc kim tự tháp quan hệ người bảo trợ-khách hàng. Cụm của một thủ lĩnh hùng mạnh địa phương với một lực lượng quân đội tư nhân có thể được giữ nguyên vẹn bằng sự kết hợp giữa lòng tôn kính và các biện pháp trừng phạt, trong khi một chính trị gia vận động tranh cử có thể xây dựng một cụm khách hàng đi theo chỉ đơn giản với sự ủng hộ nếu ông ta không có quyền lực cưỡng bức hoặc tính hợp thức truyền thống. Mỗi cụm hoặc kim tự tháp quan hệ người bảo trợ-khách hàng đều có tính đặc biệt dễ bị tổn thương của nó. Cụm ép buộc sẽ bị hủy hoại bởi sự vi phạm độc quyền quyền lực địa phương của người bảo trợ, còn cụm dựa vào dụ dỗ sẽ gặp rủi ro nếu thu nhập hoặc quyền tiếp cận công quỹ của người lãnh đạo bị cắt mất.

Độ bền theo Thời gian

Các cặp quan hệ người bảo trợ-khách hàng có thể là phù du sớm nở tối tàn, hoặc cũng có thể tồn tại trong thời gian dài.32 [“Mỗi cá nhân tiếp xúc với một số người, một số người trong số họ trực tiếp tiếp xúc với nhau, còn một số người thì không… Tôi thấy thật thuận tiện khi nói về một lĩnh vực xã hội kiểu này như một mạng. Hình ảnh tôi có là một tập hợp các điểm, một số điểm được nối bằng các đường. Các điểm của hình ảnh đó là những cá nhân hoặc đôi khi là các nhóm, còn các đường biểu thị các cá nhân tương tác với nhau. Tất nhiên, chúng ta có thể nghĩ đến toàn bộ đời sống xã hội đang tạo ra một mạng lưới kiểu này”. [(Barnes, J. A. 1954 “Class and committees in a Norwegian island parrish.”, p.43, in Human Relations 7, pp. 39-58.) HHN] Khái niệm mạng xã hội nằm giữa sự nhấn mạnh của xã hội học vào nhóm, còn nhân học xã hội thì nhấn mạnh vào cấu trúc xã hội. Tuy nhiên, điều quan trọng là các hình ảnh phức tạp về các chuỗi cá nhân mà một cá nhân nào đó tương tác với họ có các đặc điểm cấu trúc có thể đo lường được. Phân tích mạng tuân theo các tương tác này sao cho đơn vị phân tích trong nghiên cứu mạng không phải là hành vi cá nhân hay thậm chí là các liên kết cặp đôi, mà là bối cảnh xã hội, trong đó xuất hiện các hành vi cá nhân và các liên kết cặp đôi. Mô hình ấy có thể ứng dụng cho các lĩnh vực chính trị, quan hệ họ hàng và các nhóm chính thức để xem xét cụ thể hàng loạt chuỗi liên kết có thể tạo cơ sở cho việc huy động mọi người vào các mục đích cụ thể trong một số tình huống nhất định (Whitten và Wolf, 1973: Network analysis, pp. 717-746 in John J. Honigman (ed.), Handbook of Social and Cultural Anthropology. Chicago: Rand McNally Publishing Co.) HHN]. Trong môi trường truyền thống, chúng có khả năng tồn tại cho đến khi một trong các đối tác chết đi. Việc biết rõ về độ bền của những mối quan hệ như vậy cũng có thể cho chúng ta biết điều gì đó về cấu trúc của sự cạnh tranh theo thời gian. Ở những nơi các quan hệ cặp tồn tại dai dẳng, chúng có xu hướng tạo ra các cấu trúc bè phái bền chặt, liên tục về nhân sự theo thời gian, ít nhất là các cụm hoặc kim tự tháp quan hệ ổn định có thể tái hợp theo nhiều cách khác nhau nhưng được xây dựng từ các thành phần giống nhau. Ở những nơi mà các quan hệ cặp đôi mong manh, thì các liên kết cá nhân có thể trải qua một quá trình sắp xếp lại gần như hoàn toàn trong vòng một thập kỷ. Vì các cụm quan hệ người bảo trợ-khách hàng suy cho cùng đều dựa trên các mối quan hệ quyền lực, nên chúng sẽ tồn tại ổn định nhất trong một bối cảnh ổn định nhằm duy trì các vị trí quyền lực hiện có. Do đó, một người bảo trợ cụ thể sẽ giữ chân khách hàng của mình chừng nào ông ta vẫn tiếp tục thống trị việc cung cấp các dịch vụ mà khách hàng cần. Một người bảo trợ cũng có khả năng giữ những người tòng phục mình nếu phạm vi mối quan hệ có đi có lại ràng buộc họ lớn hơn. Nghĩa là, người bảo trợ càng đáp ứng được nhiều nhu cầu sống còn của khách hàng (tức là, nếu ông ta có thể không chỉ cung cấp đất đai và an ninh mà còn có ảnh hưởng đến hệ thống quản lý, giúp thu xếp thế chấp hoặc việc học hành của con cái họ, v.v.), thì mối gắn kết thường xuyên và bền chặt càng có xu hướng phát triển lâu dài. So với những người bảo trợ chỉ có thể cung cấp các dịch vụ pháp lý, chỉ hỗ trợ tài chính, hoặc chỉ đem lại các lợi thế về giáo dục, thì mối liên kết đa dạng giữa người bảo trợ và khách hàng là một liên kết vững chắc phục vụ nhiều nhu cầu; vì nó mang tính chất gắn kết cá nhân-tổng thể hơn, nó sẽ tạo thành hành động thường xuyên.

Tính Đồng nhất của Nhóm tùng phục.  

Một người bảo trợ có thể có một nhóm người tùng phục (đi theo) không đồng nhất thu hút từ mọi tầng lớp xã hội, hoặc ông ta có thể có một nhóm tùng phục, bao gồm, chẳng hạn, chỉ những người lĩnh canh nghèo (share-croppers) của ông ta hoặc chỉ những thuộc hạ giúp việc trong văn phòng của ông ta.33 Tỷ lệ những người ủng hộ một người bảo trợ có chung các đặc điểm xã hội và nét nổi bật của những đặc điểm xã hội đó đối với họ tạo thành thước đo mức độ đồng nhất của một nhóm người tùng phục. Theo định nghĩa, vì một người bảo trợ có địa vị xã hội cao hơn so với các khách hàng của ông ta, nên tính đồng nhất của nhóm tùng phục càng lớn, thì lợi ích tiềm ẩn được chia sẻ giữa những người tùng phục có thể càng đe dọa mối quan hệ đó. Ví dụ, khi một người bảo trợ là chủ đất, có các khách hàng là thuê đất của ông ta, bán tháo những khoảng đất đồng cỏ chung, thì tất cả những người thuê đất của ông ta đều bị ảnh hưởng như nhau. Tình huống và những trải nghiệm chung của họ trong bối cảnh đó tạo ra tiềm năng cho các mối quan hệ theo chiều ngang, trong khi một nhóm khách hàng không đồng nhất lại thiếu tiềm năng này.

Biến số Thực địa

Đôi khi, chúng tôi sẽ muốn mô tả và đối chiếu cấu hình của các cụm người bảo trợ-khách hàng trong một lĩnh vực chính trị hơn là xử lý một cụm hoặc cặp quan hệ đơn lẻ. Bốn khác biệt đặc biệt hữu ích về phương diện này là a) mức độ độc quyền của một người bảo trợ đối với các nguồn lực địa phương; b) mức độ độc quyền của một người bảo trợ đối với các liên kết với những cấu trúc khác; c) mật độ các liên kết người bảo trợ-khách hàng trong dân số34; và d) mức độ phân biệt giữa các kim tự tháp và các cụm quan hệ người bảo trợ-khách hàng khác nhau. Hai biến số đầu tiên là rất rõ ràng và đo lường mức độ thống trị của người bảo trợ đối với các nguồn lực địa phương và vượt khỏi địa phương. “Mật độ” đề cập đến tỷ lệ dân số nhất định là một phần của mạng quan hệ người bảo trợ-khách hàng. Trong một số tình huống, ví dụ, một phần lớn các tầng lớp thấp hơn có thể không thực sự có bất kỳ mối liên kết dọc nào của khách hàng với người bảo trợ. Để đánh giá một cách chính xác sức mạnh giải thích của chính trị người bảo trợ-khách hàng trong một lĩnh vực chính trị, đòi hỏi chúng ta phải biết mối quan hệ như vậy có hiệu quả ở mức độ dân số như thế nào. Cuối cùng, mức độ khác biệt giữa các cụm là một phương tiện để nhận biết liệu một cụm trông khá giống cụm tiếp theo hay liệu nhiều cụm có khác biệt về kinh tế - xã hội hay không. Trong bối cảnh phong kiến ​​ cổ điển, cấu trúc kim tự tháp của một lãnh địa nhỏ thuộc một lãnh chúa tương tự như cấu trúc kim tự tháp của người láng giềng - cấu trúc xã hội của cảnh quan giống như một mô thức giấy dán tường, lặp lại - do đó, tình trạng cạnh tranh giữa các đơn vị gần như giống nhau. Trong trường hợp khác, các kim tự tháp có thể được phân biệt bởi nghề nghiệp chiếm ưu thế, bởi liên hệ thể chế, v.v. để những hạt giống của một lợi ích đặc biệt và lâu bền được gieo trồng.

______________________________________________

(Còn nữa…)

Nguồn: (Scott, James C. 1972). Patron-Client Politics and Political Change in Southeast Asia, In American Political Science Review, 1972, vol. 66, issue 1, pp. 91-113.      

Tác giả: James C. Scott (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1936) là một nhà khoa học chính trị và nhân học người Mỹ chuyên về chính trị so sánh. Ông là một học giả chuyên nghiên cứu so sánh về các xã hội nông nghiệp và xã hội phi nhà nước, chính trị tập quyền và chủ nghĩa vô chính phủ. Nghiên cứu chính của ông tập trung vào nông dân Đông Nam Á và các chiến lược chống lại các hình thức thống trị khác nhau của họ. Scott nhận bằng cử nhân của trường Cao đẳng Williams và bằng Thạc sĩ và Tiến sĩ về khoa học chính trị từ Yale. Ông giảng dạy tại Đại học Wisconsin – Madison cho đến năm 1976 và sau đó tại Yale, nơi ông là Giáo sư Khoa học Chính trị Sterling. Từ năm 1991, ông đã chỉ đạo Chương trình Nghiên cứu Nông nghiệp của Yale. Ông là một học giả có ảnh hưởng lớn về lĩnh vực dân tộc học.

Ghi chú

29. There is no contradiction, I believe, in holding that a patron-client link originates in a power relationship and also holding that genuine affective ties reinforce that link. Affective ties often help legitimate a relationship that is rooted in inequality. For an argument that, in contrast, begins with the assumption that some cultures engender a psychological need for dependence, see Dominique 0. Mannoni, Prospero and Caliban: The Psychology of Colonization (New York: Praeger, 1964).

30. F. G. Bailey uses the terms "core" and "support" in much the same fashion: see his "Parapolitical Systems," in Swartz, ed., Local-Level Politics, pp. 281- 294.

31.  Here I follow the distinctions made in Blau, Exchange and Power in Social Life, pp. 115-118. Other power theorists have made the same distinction.

32. Both J. A. Barnes, "Networks and Political Process," in Swartz, pp. 107-130, and Powell, Peasant Society . p. 413, discuss this variable.

33. This variable thus relates not to a dyad but to the following in a cluster or pyramid.